(Tiếp theo và hết)
Đó là những chặng đường của tình yêu
bằng sự vật, bằng hiện tượng vũ trụ ngoại giới; sự kiện ta thán, lấy
hiện tượng vũ trụ ngoại giới để nói lên vũ trụ tình yêu cho nên lời thơ
nghe bình dị, chân thật nhưng đồng thời cũng lập được một ý nghĩ cho
ngôn từ. Lời than vắn thở dài chính là nỗi trầm thống của nữ sĩ họ Hồ
đang đứng giữa hai lĩnh vực tuổi đời và tình yêu, cả hai thứ đó vật lộn
trong tư tưởng vũ trụ quan. Cảm tác bài thơ trên sau khi Hồ Xuân Hương
bức ra khỏi cuộc tình đầu bất- đắc- dĩ với Tổng Cóc. Sau cái chết của
Tổng Cóc; Hồ Xuân Hương có một cái nhìn đối tượng khách quan, nhìn tiếp
thu, nhìn tham dự. Đó là những gì Hồ Xuân Hương muốn gạt ra khỏi vũ trụ
nội giới để thiết lập một cái nhìn bình dị, vô tư với hình ảnh đẹp hơn,
khát vọng hơn. Đó là khát vọng của sự vật và khát vọng của con người. Hồ
Xuân Hương mơ về một người tình tương lai, tương đắc, tương phùng hơn
cuộc tình “cưỡng bức” với Tổng Cóc. Qua bài thơ Khóc Tổng Cóc; Hồ Xuân
Hương nghiễm nhiên đứng trên dư luận, phi đạo đức, phi lễ nghiã một phản
kháng công khai đối với ngoại giới mà bà đương sống:
Hởi chàng ôi! ới hởi chàng ôi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhá
Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
Chính cái nhìn đối tượng khách quan cũng đã đổi thay vũ trụ nội quan của Hồ Xuân Hương đưa tới một cái nhìn sáng sủa hơn.
Đời của Hồ Xuân Hương là một cuộc đời
thử thách , đấu tranh tư tưởng khi tuổi mới lớn, rồi lấy chồng rồi ở
giá, những vật lộn ngoại giới, gây bấn loạntâm thần đó là yếu tố tâm lý
nhưng Hồ Xuân Hương là một phụ nữ nhạy cảm , dể rung động về bản năng
sinh lý, nữ sĩ rơi vào một trạng thái bị động về sinh lý nén đọng ( to
suppress ). Hồ Xuân Hương đang tìm kiếm cho chính mình đối tượng tình
yêu mà xung quanh bà trống không là phù phiếm, đến với Hồ Xuân Hương
những thứ tạp nham, bà cảm thấy khổ, chính khổ sở đó đưa tới cái trống
không vây phủ và nhận ra trong hiện hữu không có được một hạnh phúc nào
khác, thì đó là một hiện hữu trống không “L’être et le néant “ J. P.
Sartre; cho nên Hồ Xuân Hương phải xác nhận cụ thể vai trò của mình và
chính là cái mà bà đang sống với “vivre avec” hiện hữu; qua bài thơ
nguyền rủa như sau:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê con buồn sừng húc dậu thưa.
(Mắng Học Trò Dốt)
Để từ đó; đi tìm chân lý cho chính mình, đó là cái mơ tuyệt đối của nữ sĩ.
Ý muốn hoài vọng, nghiã là nhà thơ họ
Hồ, kẻ biết hưởng và sáng tạo lối mơ về của mình trong việc chiếm cứ
cũng như chia xa mà mỗi trong chúng ta gặp phải cái tương quancủa Hồ
Xuân Hương, Bà lý giải cuộc đời qua nhiều trạng thái khác nhau, xung đột
với nội tâm, nhưng trong sự xung đột đó bà vẫn mơ về; bỗng nhiên chân
lý tuyệt đối xuất hiện như phép mầu Hồ Xuân Hương gặp Phạm Đình Hổ như
định mệnh hay giấc mơ của bản thể mơ về vì Hồ Xuân Hương cảm nhận được
sự thúc đẩyđó và chính trong lần gặp gỡ ở hội thơ giữa hai người đã
tương giao, xem như ngẫu nhiên nhưng thực chất là cố tình, như lối mơ về
không còn là ngẫu nhiên mà tiềm ẩn hay bộc phát giữa hữu thức và vô
thức.
Phạm tiên sinh nhìn Hồ Xuân Hương dưới
một hiện tượng khác, dưới một hiện tượng của một tài hoa và ngược lại
Phạm Đình Hổ là một danh sĩ. Từ chỗ thông giao thơ văn họ chuyển qua cái
nhìn của tha nhân khác phái. Hồ Xuân Hương làm bài thơ Đưa Đò gởi cho
Phạm tiên sinh:
Chú lái kia ơi, biết chú rồi
Qua sông rồi lại đấm ngay bu
Chèo ghe vừa khỏi lòng dòng ngược
Đấm c…ngay vào ngấn nước suối
Mới biết lên bờ đà vỗ đít
Nào khi giữa khúc phải co vòi
Chuyến đò nên nghiã sao không nhớ ?
Sang nữa hay là một chuyến thôi.
Đến khi Hồ Xuân Hương đã đi vào cái
tuổi “về chiều”. Bà nhận ra sự phủ phàng của cuộc đời mà bà đã trải qua,
bà cảm thấy cô độc trở lại, tình yêu đến rồi đi ở chặng cuối đời là một
thức tĩnh nội tại vì bà nhìn cuộc đờiđã ẩn tàng sự biến đổi khi vừa
chấp cánh hạnh phúc chưa kịp nhận thì đã khước từ sự biến di ? Có lẽ
muốn thể hiện thể tính tình yêu cho nên lối mơ về bất chấp sự biến di
đó. Đấy là những câu hỏi có thể có và cũng có thể không có trong lòng
một người chứng kiến tổn thương của ái tình để đánh thoátsự hiện hữu đó.
Xuân Hương tỏ bày cái vũ trụ nội giới của mình, vừa chua xót vừa rủa
đời:
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa nên chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong !
Tâm thức phản kháng của Hồ Xuân Hương
lại một lần nữa bộc phát, không buông tha bà chấp nhận về cái gọi là ý
thức tục lụy, ý thứcsiêu hình phản kháng. Nói như André Maurois:”Một
người đàn bà dù có tầm thường đến mức nào cũng đủ làm cho chúng ta đau
khổ; vì họ là đàn bà” Thì Phủ Vĩnh Tường cũng phải lụy cái tài hoa của
Xuân Hương; bà biết thân phận mình, biết phận làm lẻ của một người tai
to mặt lớn, văn hay chữ tốt đó không phải là chuyện thua thiệt của kẻ
sĩ. Bản thể sâu xa của Hồ Xuân Hương là dự ước của hiện sinh cho nên hòa
mình với Phủ Vĩnh Tường là cõi mơ về của Hồ Xuân Hương; thời gian siêu
hình và thời gian hiện sinh trong cuộc sống của bà dù một phút quyết
định của một ý thức ái tình, có kế tiếp chăng, có lẽ; chỉ bên kia cuộc
đời cho nên hồi cố với Phạm Đình Hổ chỉ trên biên giới của đời và vô
biên chứ không thể trong chuyển vận của hiện sinh giữa đời và tình ái.
Sau cái chết của Phủ Vĩnh Tường Trần
Thúc Hiển, rồi tình yêu lỡ vận với Phạm Đình Hổ. Như vậy đời của Hồ Xuân
Hương đã ăn nằm với ba nhân vật tai tiếng mà rút lại hóa không. Cái
không ở đây là biểu tượng tuyệt vọng; l’être et le néant một hiện hữu
trống không, một thôi thúc mà Hồ Xuân Hương gánh chịu của thời gian,
thời gian tâm lý chính là thời gian sống của con người; đó là thời gian ý
thức mà con người của nữ sĩ đã đắm mình vào và hòa mình trong nhịp sống
để tạo nên một biến trình nội tại. Nếu con người đặt mình trong biến
trình chuyển vận ngoại tại thì có thể xử dụng được thái độ đối xử của
mình.
Thái độ hiện tại thuộc về tư tưởng
cũng như tác động là hình ảnh sống động về nhân sinh; phơi bày một chế
độ tàn dư phong kiến hẹp hòi, bất công của bọn giáo phường, đạo đức giả
hiệu. Qua bài Vịnh Cái Quạt:
Mười bảy hay là mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay
Mỏng dày chừng ấy chành ba góc
Rộng hẹp dường nào cắm một cây
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm không phỉ lại yêu ngày
Hồng hồng má phấn duyên vì vậy
Chúa dấu vua yêu một cái này.
Bài thơ nói lên cái thật của hiện hữu
nhưng cái thật của Hồ Xuân Hương là cái bao hàm vũ trụ nội quan có một
âm hưởng khác, một âm hưởng nội tại đó là hiện hữu tính dục vật thể. Một
lối dụng công chữ nghiã của họ Hồ mà ít ai xây dựng cái cảm quan như
vậy. Đó làdòng tâm lý đi từ qúa khứ, hiện tại và tương lai khi con người
thấy mình đang sống qua bao nhịp đời đã sống cũng như viễn tượng tương
lai của nhịp đời sẽ sống. Đó là thời gian tâm lý mà Hồ Xuân Hương đã
vượt qua và chính những giây phút ấylà hành động và cảm giác. Hồ Xuân
Hương đã dùng ngôn từ như một thể tính triết học hiện sinh vừa cụ thể
hóa vừa tượng trưng những thâm sâu cùng tận của vũ trụ ngoại giới cũng
như vũ trụ siêu hình.
Động Hương Tích; Hồ Xuân Hương phơi
bày cảm quan của mình qua con người hiện sinh, nhận định bằng cảm giác
là nhận định trực tiếp ngay số phận của mình đang sống qua sự bắt gặp
của ý thức:
Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
Nứt ra một lỗ hỏm hòn hom
Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
Con thuyền vô trạo cúi lom khom
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại
Rõ khéo trời già đến dở dom.
(Thơ Nôm truyền tụng)
Cho nên có một hiện hữu hành vi và cảm
giác; hiện hữu đang có những tác động gì đang được hoàn tất cả một mùi
vị chua chát hay ngọt ngào, hiện hữu có một màu sắc thanh bình hay thê
thảm trong khi hoài niệm phai dần với thời gian, không thấy được, không
cảm được bằng tri giác không gian mà chỉ có thể bằng ký ức.
Vậy tâm thức phản kháng của Hồ Xuân
Hương là tinh thần phản kháng giữa cõi thế vô thường, vô lượng của một
thân phận mỏng manh, yếm thế, bức tức rơi vào một xã hội bất công và
ngược đãi. Phản kháng là không đành lòng thuận sự ngổn ngang, tình huống
nghiêng ngả và gắng gượng tái lập cõi mộng“Cổ Nguyệt Đường” trong cái
mộng thái hòa để được xoa dịu, bởi; hiện hữu của nữ sĩ là nỗi trầm thống
và tinh thần phản kháng hiện sinh được phát tiết qua những vần thơ
nguyền rủa, phẩn nộ với ngậm ngùi của nội tại. Từ chỗ hữu hình và vô
hình Hồ Xuân Hương vấp phải những gò đống, hang cùng ngõ cụt những ray
rứt nội tại xô mình vào vũ trụ siêu hình, vũ trụ nhân sinh quan.
Ý thức của Hồ Xuân Hương là ý thức đậm
mùi tục lụy. Có thể nói rằng khi chấp nhận hiện thể để chứng minh tình
cảm của mình Hồ nữ sĩ xác định cuộc đời của con người hoàn toàn đau xót
và không bao giờ ngừng nghỉ những mối sầu thương và vẫn yêu cuộc đời đau
khổ vì khổ đau cũng giống như niềm vui và đôi khi đồng hóa với niềm
vui…
Những lý lẽ đó hoặc bởi những lý do
nào khác mà ta mất đi lịch sử đích thực của họ Hồ. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương
nhận thức được thời đại của mình đang sống. Đời đã nói một câu như thế
nầy thay cho Hồ nữ sĩ “Je ne serait pas ici demain” không cần có tôi ở
đây cho ngày mai.
Nghĩ cùng thế sự lòng như đốt
Trông suốt nhân tình dạ muốn say.
Hồ Xuân Hương. Tự Thán (Thơ Nôm Lưu Hương ký).
Theo VĂN NGHỆ SÔNG CỬU LONG
0 nhận xét :
Đăng nhận xét