Chủ thể nhận thức hiểu theo nghĩa rộng là xã hội loài người nói chung mang tích chất lịch sử cụ thể. Hiểu theo nghĩa hẹp là dân tộc, giai cấp... cá nhân thể hiện trong hoạt động thực tiễn xã hội. Khách thể của nhận thức là hiện thực khách quan nói chung được thể hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người, đó là bản thân giới tự nhiên – xã hội và bản thân con người với tính cách là đối tượng nhận thức dưới các hình thức khác nhau. Theo đó, chủ thể thẩm mỹ, chủ thể nghệ thuật cũng bắt đấu khi con người, chân đi đất, cởi trần, đầu đội lốt thú thì một Homoesthéticque chưa hề xuất hiện. Để chuyển từ một Homosapiens[1], đến Homofabe[2] và cao hơn khi trở thành các Homoesthéticque[3] là một quá trình rất lâu dài của lịch sử. Đó là quá trình chuyển hoá con người tự nhiên thành con người xã hội, chuyển hoá các giác quan tự nhiên thành các giác quan có tính chất xã hội. Đó cũng là quá trình đối tượng tự nhiên được con người chiếm hữu một cách có ý thức, có kỹ thuật của hoạt động thực tiễn xã hội. Trong hoạt động này, các đối tượng vẫn giữ được đặc tính tự nhiên, đồng thời lại mang đặc tính mới có giá trị xã hội. Và cũng theo C.Mác thì chính lao động, các giác quan mới có tính người, cái tai mới biết thưởng thức âm nhạc, con mắt mới biết nhận thức được cái đẹp của hình thức. Các giác quan con người, nhân tính của các giác quan chỉ phát sinh bởi sự tác động của hiện thực và đồng hoá hiện thực bởi hoạt động thực tiễn.
Trước khi có con người, thế giới hiện thực vẫn tồn tại trong dáng vẻ vật lý, sinh học vốn có của nó. Một ánh trăng rằm, một dòng suối chảy, một mảng trời xanh, một tiếng chim hót, một bông hoa nở vẫn là những thuộc tính vật lý, sinh học vốn có của giới tự nhiên. Nhưng ý nghĩa thẩm mỹ của nó đã được hình thành trong hoạt động thực tiễn khi con người chiêm ngưỡng các hiện tượng ấy và liên tưởng đến ý nghĩa xã hội của nó, để có thể mang lại những sự rung động tình cảm nhất định về tình yêu thiên nhiên, yêu con người và yêu lao động. Trong đời sống tinh thần, yếu tố xúc cảm là một trong những yếu tố cấu thành nội dung của quan hệ thẩm mỹ, quan hệ nghệ thuật. Bởi nó không chỉ mang cảm xúc sinh học, mà là cảm xúc – cảm nghĩ của chủ thể cảm xúc có tính bản chất con người trong quá trình đồng hoá hiện thực bằng thẩm mỹ bằng sáng tạo nghệ thuật.
Hoạt động thẩm mỹ – hoạt động nghệ thuật mang bản chất của chủ thể thẩm mỹ, trước hết là hoạt động có mục đích được dự kiến trước. Tính mục đích không chỉ là tiêu chuẩn sự khác nhau giữa hoạt động bản năng, giữa hoạt động tâm lý của động vật với lao động thực tiễn và hoạt động có ý thức của con người; mà còn có ý nghĩa khẳng định vai trò của con người. Bởi vì, mục đích của con người là cải tạo thế giới để phục vụ đời sống của mình và thông qua đó cải tạo bản thân mình. Thực tiễn đã biến tự nhiên thành tự nhiên của con người, có tính người và mặt khác, biến con người thành con người xã hội.
C.Mác đã khẳng định hoạt động có mục đích của con người đã dẫn con người biết sáng tạo trong toàn bộ cuộc sống của mình. Hoạt động sáng tạo ấy là điều kiện chủ yếu để con người thoát khỏi tình trạng động vật và là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Đồng thời C.Mác cũng chỉ ra sự khác biệt của nó so với hoạt động của súc vật là ở chỗ, “con người sản xuất một cách phổ biến”, “tái sản xuất ra toàn bộ tự nhiên” trong khi “súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân mình”. Và chỉ thoát ra khỏi nhu cầu vật chất, con người mới sản xuất theo đúng nghĩa của từ này, con người đối lập một cách tự do với sản phẩm của mình trong khi sản phẩm của súc vật trực tiếp gắn liền với cơ thể sinh học của nó. C.Mác còn nhấn mạnh hoạt động của con người mục đích và có phương pháp để thực hiện mục đích, cho nên “súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo của bất cứ giống loài nào và ở đâu cũng có thể ứng dụng cho đối tượng; do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo qui luật của cái đẹp”[4]. Về vấn đề này Ph.Ăngghen cũng thường nói rằng: “Chỗ khác nhau chủ yếu và cuối cùng giữa con người và các loài động vật khác” là: “động vật chỉ lợi dụng tự nhiên bên ngoài và chỉ gây ra những sự biến đổi trong tự nhiên đơn thuần bằng sự có mặt của chúng, còn con người lại do đã tạo ra những biến đổi trong tự nhiên mà bắt tự nhiên phải phục vụ cho những mục đích của mình và thống trị tự nhiên”[5].
Lúc đầu con người chỉ tồn tại với tư cách là con người thực dụng, chỉ biết sản xuất ra thức ăn, đồ mặc. Mặc dầu con người biết sáng tạo ra công cụ lao động, biết biến đổi hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất tối thiểu. Phải trải qua một quá trình sáng tạo lâu dài ở con người mới hình thành các giác quan có khả năng thụ cảm, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ, ở con người mới xuất hiện tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, đánh giá thẩm mỹ.
Nghiên cứu quá trình phát triển từ chủ thể thực dụng chuyển sang chủ thể mang giá trị thẩm mỹ, nguời ta thường chú ý đến sự phân công lao động, đến trình độ kỹ thuật của con người. Các hoạt động thẩm mỹ đầu tiên của con người là sự hoạt động kết hợp giữa cái thực dụng (cái có ích, cái hữu ích) và cái thẩm mỹ. trong lịch sử nghệ thuật sự xuất hiện nghề thủ công có sớm hơn những sản phẩm thuần túy thẩm mỹ – nghệ thuật. Nghệ thuật chỉ ra đời khi tình cảm, xúc cảm của con người đã phát triển khá phong phú.
Nói đến chủ thể thẩm mỹ là nói đến các giác quan có khả năng thụ cảm và sáng tạo thẩm mỹ. C.Mác đã nói rằng: “Sự hình thành năm giác quan của con người là công việc của toàn bộ lịch sử toàn thế thế giới diễn ra từ trước đến nay”[6]. Thông qua thực tiễn xã hội lâu dài các giác quan mới được dần dần xã hội hoá thành các giác quan thẩm mỹ của con người. Con công có dù múa đẹp đến đâu đi nữa thì, đôi cánh của nó không thế có ý nghĩa xã hội như đôi bàn tay của con người. Sản phẩm của nhà kiến trúc sư tồi nhất vẫn hơn các công trình được coi là tuyệt tác của con ong.
Trong các giác quan của con người thì tai, mắt và hai bàn tay là quan trọng nhất. Sở dĩ thính giác, thị giác trở thành các giác quan mang lại chủ thể khả năng mỹ cảm rõ rệt và sâu sắc hơn các giác quan khác vì nó gắn bó với sự thưởng ngoạn tinh thần được xã hội hoá cao. Các giác ấy làm cho chủ thể thẩm mỹ thấy cái đẹp của hình thức và nghe được âm thanh của cuộc sống. Bàn tay được rèn luyện về mặt nghệ thuật sẽ trở thành những khí quan tiêu biểu và vật chất hoá ý đồ sáng tạo của con người. C.Mác viết: “thông qua sự phong phú, đã được phát triển về mặt vật chất, của bản chất con người, thì sự phong phú của tính cảm giác chủ quan của con người mới phát triển một phần thậm chí lần đầu tiên mới được sản sinh ra; lỗ tai thính âm nhạc, con mắt nhận thấy cái đẹp của hình thức, - nói tóm lại là những cảm giác có khả năng về sự hưởng thụ có tính chất người và tự khẳng định mình như những lực lượng bản chất của con người”[7].
Do tính chất phong phú và đa dạng của quan hệ nghệ thuật, nên cũng có nhiều hình thức tồn tại của chủ thể thẩm mỹ – chủ thể nghệ. Có thể kể ra năm nhóm chủ thể thẩm mỹ cơ bản: Chủ thể thưởng thức nghệ thuật, chủ thể sáng tạo nghệ thuật, chủ thể biểu hiện nghệ thuật, chủ thể tổng hợp các giá trị nghệ thuật và chủ thể định hướng nghệ thuật.
Chủ thể thưởng thức nghệ thuật là nhóm chủ thể rộng lớn nhất. Đây là nhóm chủ thể tiêu thụ các giá trị nghệ thuật. Nhóm chủ thể này cần được giáo dục về mặt thẩm mỹ để có thể thâm nhập sâu hơn vào thế giới nghệ thuật. Một chủ thể thưởng thức nếu được rèn luyện về mặt thẩm mỹ thì phát hiện ra đâu là những cái đẹp cần cổ vũ, đâu là cái xấu cần xoá bỏ. Không được giáo dục thẩm mỹ về nghệ thuật thì chủ thể tiêu thụ không có khả năng tiêu thụ và đánh giá thẩm mỹ không thấy được giá trị nghệ thuật chân chính và phản giá trị trong nghệ thuật.
Trong hoạt động đánh giá nghệ thuật, với tính cách là công chúng - chủ thể đánh giá nghệ thuật thì trước hết ở đây sự đánh giá với tinh thần chủ động, tự giác, mang tính tích cực và tự do. Bởi lẽ, trong qúa trình tiêu thụ những giá trị thẩm mỹ, công chúng không chỉ nhằm mục đích phát hiện ý nghĩa, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật, mà họ có quyển tự do lựa chọn tác phẩm nghệ thuật cho phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ - lý tưởng thẩm mỹ của mình, thông qua kinh nghiệm thẩm mỹ của bản thân và xã hội. Chủ thể đánh giá – tiếp nhận luôn là sự đánh giá dưới sự soi sáng của tính tư tưởng theo những nhu cầu thẩm mỹ – nhu cầu nghệ thuật cụ thể tập trung vào một mặt nào đó theo yêu cầu về nội dung của các tư tưởng xã hội như : chính trị, đạo đức, triết học, khoa học và tôn giáo, v.v...
Trong đời sống tinh thần, trên thực tế giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật thường được sử dụng như là cái chuyển tải hoặc như là phương tiện để thực hiện những mục đích nào đó của những tư tưởng xã hội nhất định. Chủ thể đánh giá – tiếp nhận, đánh giá nghệ thuật theo nhu cầu tư tưởng ngoài thẩm mỹ với khuynh hướng có phần tuyệt đối hóa nội dung của các tư tưởng xã hội, phục vụ mục tiêu chính trị - xã hội trong các tác phẩm nghệ thuật. Ở đây ý nghĩa thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật có thể bị xem nhẹ hoặc cũng có thể bị bị gạt bỏ. Chủ thể đánh giá – tiếp nhận, đánh giá nghệ thuật theo nhu cầu tâm lý là sự đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu giải trí thẩm mỹ thông thường. Dưới hình thức này, công chúng không có khả năng tiếp nhận có hiệu qủa đích thực giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật.
Cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả không phải là những đối tượng thẩm mỹ- đối tượng nghệ thuật dễ phát hiện đối với một chủ thể tiêu thụ. Dù là tiêu thụ với tính cách là thính giả, khán giả, đọc giả thì chủ thể thưởng thức muốn hưởng thụ được các giá trị thẩm mỹ- giá trị nghệ thuật để hình thành tình cảm, thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ – nghệ thuật đích thực thì thì phải luôn nâng cao năng lực thẩm mỹ. Đó là năng lực cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ có khả năng thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ của cá nhân và xã hội
Chủ thể sáng tạo nghệ thuật là những chủ thể tiếp nối quá trình tiêu thụ, quan sát của nhóm chủ thể thưởng thức chuyển sang một quá trình mới sáng tạo ra những giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật. Đó là các nhà thiết kế mỹ thuật công nghiệp được thể hiện trong hoạt động mỹ học lao động, họ đưa cái đẹp vào sản xuất và đời sống xã hội, tạo ra sự hài hoà trong môi trường, phương tiện, điểu kiện lao động, sản phẩm lao động. Đó cũng là các nhà tạo mẫu thời trang thể hiện trong hoạt động mỹ học hành vi, mỹ học sinh hoạt như là một phần tất yếu của hoạt động nghệ thuật theo quan điểm hiện đại để góp phần tạo ra những giá trị thẩm mỹ – giá trị nghệ thuật từ hành vi đến nếp sinh hoạt và cả vẻ đẹp trong trang trí ăn mặc làm đẹp cuộc sống nói chung của con người.
Đặc biệt, đối với chủ thể sáng tạo nghệ thuật tạo ra giá trị nghệ thuật trong các loại hình, loại thể nghệ thuật khác nhau. Trước hết, đây cũng là chủ thể thưởng thức nhưng không đồng nhất với chủ thể thưởng thức với tính cách là công chúng nói chung. Tuy rằng chủ thể sáng tạo nghệ thuật không những cũng bao gồm sự hưởng thụ những giá trị thẩm mỹ, theo nhu cầu, mục đích lợi ích thẩm mỹ của cá nhân người nghệ sỹ mà còn có khả năng định hướng cho công chúng đánh giá đúng ý nghĩa của những giá trị thẩm mỹ bằng chính sự sáng tạo của mình.
Chủ thể thể biểu hiện những giá trị nghệ thụât là nhóm chủ thể thực hiện việc truyền đạt sản phẩm của chủ thể sáng tạo tới chủ thể thưởng thức, tiêu thụ nghệ thuật. Sản phẩm sáng tạo là tổng hợp phong phú các giá trị nghệ thuật đòi hỏi chủ thể biểu hiện là phải truyền đạt đúng và đẹp các giá trị đó. Xét về hình thức thì chủ thể biểu hiện, có thể sử dụng chính bản thân mình làm phương tiện biểu hiện (như diễn viên múa, sân khấu, điện ảnh,v.v…). Cũng có chủ thể biểu hiện sử dụng các phương tiện kỹ thuật để truyền đạt các giá trị do chủ thể sáng tạo làm ra (như trong âm nhạc là các nhạc công, v.v…).
Việc làm chủ các phương tiện kỹ thuật và các cách thức biểu hiện là hoạt động thẩm mỹ quan trọng của nhóm chủ thể này. Bởi lẽ tự nhiên, nó gắn liền với thể chất sinh học của chủ thể biểu hiện là năng khiếu bẩm sinh, cái đẹp bẩm sinh về ngoại hình. Nhưng vấn đề quan trọng hơn là khả năng tự rèn luyện, học tập của các chủ thể biểu hiện để có thể làm chủ được các phương tiện kỹ thuật biểu hiện và cách thức biểu hiện. Cũng cần nhấn mạnh rằng chủ thể biểu hiện cũng là chủ thể sáng tạo mà là sự sáng tạo trong biểu hiện những giá trị nghệ thuật ở tính đa dạng, sinh động và phong phú của các hiện tượng thẩm mỹ trong hoạt động thẩm mỹ của con người[8].
Người ta cũng không thấy làm lạ khi có những sáng tạo nghệ thuật đã tồn tại nhiều thế kỷ, nhưng ở mỗi thời đại lại có khả năng biểu đạt của nó khác nhau. Cùng một bản nhạc, một vở kịch có nhiều chủ thể khác nhau biểu hiện, nhưng cũng có những sự thành công, thất bại và do tính chất mở của nghệ thuật đã mang lại tính vô tận trong sáng tạo của chủ thể biểu hiện dưới các hình thức không gian, thời gian, hình tượng nghệ thuật khác nhau.
Chủ thể tổng hợp các giá trị nghệ thuật là nhóm chủ thể mà trong hình thái học nghệ thuật (các loại hình nghệ thuật) gọi là nhóm chủ thể tổng hợp các giá trị nghệ thuật. Chủ thể này vừa là người thụ cảm, sáng tạo, người biểu hiện và là người phê bình. Nói đến đặc trưng của nhóm chủ thể này, người ta chú ý đến khả năng đạo diễn, người đạo diễn. Đạo diễn là người am hiểu cả nghệ thuật không gian đến nghệ thuật thời gian, nghệ thuật thính giác lẫn nghệ thuật thị giác trong tính đa dạng, nhiều tầng, nhiều lớp của các loại hình nghệ thuật của các hình tượng nghệ thuật.
Đạo diễn sử dụng một số lượng phương tiện công cụ nghệ thuật phong phú, gồm: các sản phẩm của người sáng tạo, các thủ pháp và các công cụ sáng tạo của chủ thể biểu hiện (diễn viên, nhạc công,v.v…) và cả bản thân chủ thể biểu hiện. Ý đồ điện ảnh của nhà đạo diễn chỉ có thể thực hiện thông qua diễn viên và toàn bộ năng lực biểu hiện của họ. Ý đồ của người nhạc trưởng cũng chỉ có thể thực hiện được khi phát động toàn bộ năng lực của các nhạc công và phối hợp tốt các phương tiện của họ. Vì vậy, năng lực của chủ thể tổng hợp các giá trị thẩm mỹ là rộng lớn, bao quát nhiều lĩnh vực thẩm mỹ, nhiều lĩnh vực nghệ thuật.
Chủ thể định hướng nghệ thuật là nhóm chủ thể định hướng giá trị trong hoạt động đánh giá thẩm mỹ, đánh giá nghệ thuật. Họ có vai trò quan trọng trong việc liên kết các sản phẩm sáng tạo nghệ thuật với người tiêu thụ nghệ thuật. Giá trị thẩm mỹ của chủ thể sáng tạo sẽ được đối chiếu, được phản ánh thông qua chủ thể thưởng thức và nhất là chủ thể định hướng giá trị. Sản phẩm của sáng tạo thẩm mỹ có thể là những sản phẩm tốt hoặc xấu, vì thế trách nhiệm của chủ thể định hướng thẩm mỹ có nội dung trước hết là đánh giá thẩm mỹ. Chủ thể định hướng cố gắng nêu lên một cách chính xác đâu là giá trị thẩm mỹ, đâu là phản giá trị, rút ra những qui luật tồn tại của các sản phẩm sáng tạo, đưa ra những định hướng cần thiết cho cả chủ thể sáng tạo.
Trong nghệ thuật chủ thể định hướng thẩm mỹ là nghiên cứu lý luận, thông tin, phê bình các tác phẩm nghệ thuật. Thông qua chủ thể đánh giá lý luận, chỉ số giá trị thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật, thông qua cái đẹp, cái bi, cái hài thể hiện sự xung đột giữa các lực lượng xã hội đại diện cho giá trị thẩm mỹ đích thực và phản giá trị thẩm mỹ trong hệ qui chiếu: giữa chủ thể đánh giá – sáng tạo với chủ thể đánh giá – tiếp nhận. Trên cơ sở đó, chủ thể đánh giá lý luận có thể đưa ra những dự báo, định hướng về sự vận động và phát triển của nghệ thuật, cũng như định hướng chung cho những chuẩn mực mới của hoạt động đánh giá tiếp nhận.
Khách thể thẩm mỹ – khách thể nghệ thuật, với tính cách là đối tượng thẩm mỹ. Đó là những những hiện tượng thẩm mỹ khách quan như cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Trong đó cái đẹp giữ vị trí trung tâm. Bởi vì cái bi, cái hài, cái cao cả sở dĩ mang yếu tố thẩm mỹ vì chúng là các hình thức tồn tại khác nhau của cái đẹp và trong mối quan hệ với cái đẹp. Nghệ thuật với tính cách là hình thái cao nhất của quan hệ thẩm mỹ, cũng bao gồm sự hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật nhằm thoả mãn nhu cầu: tình cảm – thị hiếu – lý tưởng nghệ thuật của cá nhân và xã hội. Nói đến nghệ thuật là nói đến các qui luật của tình cảm, của cái đẹp. Sự phản ánh cái xấu trong nghệ thuật cũng phải gắn với lý tưởng về cái đẹp. Do đó, cái đẹp đã làm cho nghệ thuật thể hiện được bản chất, đặc trưng và chức năng của nó và đồng thời nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của mỹ học.
Nhận thức bằng hình tượng nghệ thuật có những đặc trưng chung, làm cho nó gần giống với các hình thức phản ánh khác của qúa trình nhận thức, nhưng phản ánh bằng hình tượng nghệ thuật còn bao hàm những tính chất riêng biệt, đặc thù chỉ có trong hoạt động nghệ thuật. Với tính cách là sự tái hiện đặc thù về thế giới, chúng ta có thể thấy rất rõ là, khác với tri giác, biểu tượng, khái niệm, v.v..., bản chất nhận thức của nghệ thuật làm cho nó khác với các hình thức khác của hoạt động nhận thức của con người. Bởi vì, nhận thức bằng nghệ thuật không thể được qui vào một hình thức phản ánh, một giai đoạn nào của qúa trình nhận thức, mà nó nổi lên như sự thống nhất giữa các yếu tố lý trí và tình cảm. Mặt khác, nhận thức bằng nghệ thuật có khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa thế giới hiện thực; nhưng biểu hiện của tư tưởng khái quát hóa, trừu tượng hóa đó không đồng nhất với những “tính hình tượng” vốn là lĩnh vực hết sức trừu tượng ví như trong triết học và khoa học, v.v...
[1] Homosapiens: người vượn.
[2] Homofabe: người lao động,
[3] Homoesthéticque: người thẩm mỹ.
[4] C. Mác, Bản thảo kinh tế – triết học 1884, Nxb Sự thật, Hà Nội 1962, tr. 93 – 94.
[5] Ph..Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1963, tr. 283.
[6] C. Mác, Bản thảo kinh tế – triết học 1884, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962, tr. 137.
[7] Sách đã dẫn, tr. 137.
[8] Tính cách và tài năng cá nhân của nghệ sỹ biểu hiện.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét