Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Thứ Tư, 21 tháng 7, 2010

Vai trò của nghệ thuật trong hoạt động sáng tạo

Quan niệm triết học mácxít khẳng định hoạt động sáng tạo là một năng lực, phẩm chất của con người đóng vai trò chủ thể của lịch sử. Năng lực và phẩm chất của con người rất đa dạng và phong phú, thể hiện trong hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn, như năng lực trí tuệ, thể chất, chuyên môn, v.v... hoặc các phẩm chất như chính trị, đạo đức, khoa học, thẩm mỹ, v.v...

Cơ sở lý luận về hoạt động sáng tạo của quan điểm mácxít đều xuất phát từ lý luận chung về con người, và bản chất của con người. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph. Ăngghen viết : “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”[1]. Đồng thời lao động còn là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau căn bản giữa hoạt động bản năng của động vật với hoạt động sáng tạo của con người. Điều đó cũng đã được Ph. Ăngghen khẳng định: “Hàng chục vạn năm, - thời gian này trong lịch sử trái đất cũng tương đương như một giây đồng hồ trong một đời người - đã trôi qua, trước khi xã hội loài người xuất hiện từ đàn vượn leo trèo trên cây...giữa đàn vượn và xã hội loài người có sự khác nhau đặc biệt gì ? Đó là lao động... Lao động bắt đầu cùng với việc chế tạo công cụ”[2].

Như vậy, theo Ph. Angghen, hoạt động sáng tạo hiểu theo nghĩa rộng nhất gắn liền với hoạt động đầu tiên của con người là hoạt động sản xuất vật chất, về bản chất là hoạt động sáng tạo ra công cụ, và công cụ có nghĩa là sản phẩm chỉ riêng của con người. Hoạt động sáng tạo bao gồm những dấu hiệu đặc trưng:

Trong tính cụ thể của hoạt động sáng tạo phải có yếu tố của cái mới. Điều đó có nghĩa là, sáng tạo là một nhu cầu vừa mang tính chủ quan và vừa mang tính khách quan của con người. Cái mới, không chỉ thể hiện trong mối quan hệ với cái cũ, mà nó thể hiện như một quá trình của hoạt động sáng tạo, như là cái mang tính dự báo, cái khẳng định, cái thay thế cái cũ và đồng thời là tiêu chuẩn của mọi sự phát triển.

Trong tính cụ thể của hoạt động sáng tạo là tính độc đáo của cái mới, của những ý tưởng, làm cơ sở cho sự xuất hiện của những giải pháp mới, dưới những hình thức nào đó mà nó có khả năng thực hiện được những nhiệm vụ trong hoạt động nh. Tận thức và thực tiễn nói chung của con người. Tính độc đáo của cái mới không chỉ là một phát kiến trong ý tưởng thuần túy, mà là ý tưởng xuất hiện bởi tính mục đích và nhu cầu có tính khách quan mà về nguyên tắc con người có thể thực hiện được trong thực tế. Đó là sự xuất hiện tình huống có vấn đề và việc tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất để giải quyết những tình huống đó dưới nhiều hình thức khác nhau.

Hoạt động sáng tạo trong tính cụ thể phải dẫn đến hiệu qủa hoạt động và chất lượng sản phẩm cao hơn, hoàn thiện hơn. Nhưng hoạt động sáng tạo thể hiện như thế nào trong hoạt động nhận thức, xét về tính mục đích, phương pháp thao tác và ứng dụng nó?

Trước hết, cần xác định vị trí của tư duy sáng tạo trong hoạt động nhận thức nói chung của con người. Lẽ tất nhên, tư duy sáng tạo không đồng nhất với toàn bộ quá trình nhận thức và cũng không thể là một hình thức phản ánh đơn cực mà nó được thể hiện như một quá trình bao gồm những liên kết thành một chuỗi những hình thái tâm lý sáng tạo khác nhau. Trong đó, về cơ bản cơ chế hoạt động bao gồm: Cảm xúc sáng tạo – ý tưởng sáng tạo – hành động sáng tạo.

1. Cảm xúc sáng tạo được hiểu như một nhu cầu tự thân, trỗi dậy với niềm đam mê sáng tạo được nảy sinh từ những tình huống có vấn đề đặt ra cho chủ thể sáng tạo những cảm hứng, tạo nguồn cảm ứng mãnh liệt, v.v…

2. Tư duy sáng tạo, đó là những ý tuởng sáng tạo có thể nảy sinh từ những cảm xúc sáng tạo trực tiếp như đã nói ở trên hoặc đã được nung nấu từ lâu trong ý đồ sáng tạo của chủ thể sáng tạo dưới hình thức định hướng căn bản,

3. Hành động sáng tạo, đó là nhu cầu sáng tạo phải được thực hiện bằng những công việc cụ thể thể hiện ý tưởng sáng tạo thành tư duy lôgíc hay hiện vật, vật chất hoá tư tưởng sáng tạo. Hành động sáng tạo, dẫn đến kết quả của hoạt động sáng tạo luôn được xem xét ở thái độ sáng tạo của chủ thể. Đó là nhu cầu thoả mãn sự sáng tạo theo hai khuynh hướng chính là mục đích hưởng thụ hay cống hiến; nhưng nhìn chung nó nhằm thoả mãn nhu cầu sáng tạo trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nóin chung của con người.

Tư duy sáng tạo rất đa dạng, phong phú, bởi nó bao gồm tính đa chiều của nhiều loại hình phản ánh khác nhau trong hệ thống phức tạp của hoạt động nhận thức. Vấn đề quan trọng trong hệ thống đó có bao nhiêu loại tư duy cơ bản, mà thiếu nó thì không thể hiểu được nguồn gốc, bản chất và tính qui luật trong hoạt động nhận thức.

Nhiều công trình nghiên cứu về tâm lý học sáng tạo trong những năm gần đây của khoa học tâm lý, đã chỉ ra các hình thức biểu hiện và cơ cấu vận động của các loại tư duy căn bản, mà trong đó tư duy sáng tạo như một tích hợp những loại tư duy căn bản của con người. Vậy có bao nhiêu loại tư duy căn bản và tư duy sáng tạo là tích hợp của nó được thể hiện như thế nào?

Thật khó có thể trình bày một cách đầy đủ về các loại tư duy, mặc dầu trong tính hệ thống của nó người ta vẫn có thể xác định được vị trí và vai trò của của từng loại tư duy trong hoạt động nhận thức nói chung của con người; nhưng về cơ bản chúng ta có thể nêu lên những loại tư duy căn bản sau:

1. Tư duy lôgíc;

2. Tư duy thuật toán;

3. Tư duy hình tượng;

4. Tư duy ngôn ngữ;

5. Tư duy biện chứng;

6. Tư duy khoa học;

7. Tư duy kỹ thuật;

8. Tư duy kinh tế;

9. Tư duy mặc tưởng, v.v…

Hoạt động sáng tạo là một thuộc tính chung của hoạt động con người, chứ không phải chỉ là hoạt động khoa học và càng không qui giản về hoạt động nghệ thuật. Lẽ tất nhiên, hoạt động sáng tạo khoa học và nghệ thuật là những hình thức cao nhất của hoạt động con người trong đó, sáng tạo nghệ thuật là hình thức hoạt động đặc thù loại biệt.

Từ lâu con người đã biết đến các khả năng dự báo, các tố chất kích thích và các định hướng do nghệ thuật mang lại đối với hoạt động sáng tạo của con người. Bởi vì, nghệ thuật với khả năng gợi mở của nó đã làm phát triển các năng lực trực tiếp của hoạt động sáng tạo. Đó là những năng lực cảm hứng, tưởng tượng và trực giác, phát hiện... Thực ra, vai trò của nghệ thuật đối với hoạt động sáng tạo còn có thể nghiên cứu ở nhiều phương diện khác như : nghệ thuật như là môi trường của hoạt động sáng tạo, nghệ thuật như là hình thức đặc thù của hoạt động sáng tạo.



[1] C. Mác & Ph. Angghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 215.

[2] Sách đã dẫn, tr. 647 – 648.



0 nhận xét :