Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Thứ Tư, 22 tháng 9, 2010

Nhạc sĩ Hoàng Việt: Khi ra đi có hứa thu nay về...







Xưa anh viết Tiếng còi trong sương đêm lúc còn niên thiếu, đã có câu vận vào đời chiến sĩ của mình: Khi ra đi có hứa Thu nay về. Và Thu nay anh về lại trong sự ngưỡng mộ và nhớ thương của đồng chí đồng bào, khi TP HCM tổ chức Hội thảo về đời anh, về sự nghiệp âm nhạc của anh để lập hồ sơ đề nghị truy tặng Anh hùng. Thôi thế cũng là một tôn vinh tưởng thưởng, dù muộn…

Anh đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về VHNT, nhưng trong tôi, anh còn là hình ảnh một người Anh hùng… Lúc còn bé, nghe anh chị tôi hát Nhạc rừng, lòng tôi bồn chồn vô hạn, biết đâu chiến tranh vẫn còn tiếp diễn và đến lượt mình thành anh chiến sĩ lãng mạn yêu đời trong bài hát… Lớn lên một chút, lớp chúng tôi được dạy hát Tình ca qua những người anh lớp trên, dạy một cách bí mật vì Tình ca đến lúc ấy vẫn chưa được phổ biến. Tôi đâu có biết khi tôi cất tiếng hát thì là lúc người nhạc sĩ chiến sĩ, tác giả những ca khúc lừng danh ấy đã chiến đấu và hy sinh trên chiến trường… Và những ngày ra mặt trận, bản Tình ca luôn là bài hát chúng tôi hát cho nhau nghe để gửi thương gửi nhớ về quê hương …

Hoàng Việt của Tình ca và bản giao hưởng đầu tiên ở Việt Nam

Người nhạc sĩ tài danh ấy đã hy sinh quá sớm, khi tài năng anh đang chín rộ mà một trong những đỉnh cao ấy là bản giao hưởng Quê hương. Anh được xem là một trong những nhạc sĩ đầu tiên mở đường cho thể loại âm nhạc bác học này ở Việt Nam. Nhưng có thể nói, cái làm nên chân dung Hoàng Việt giữa cuộc đời là những bản tình ca. Vâng! Những bản tình ca. Hoàng Việt đã để lại - những ca khúc mà sáu chục năm rồi vẫn được tấu lên, vẫn được cất lên bởi những người dân Việt yêu Tổ quốc quê hương tha thiết: Khi cất lên tiếng ca gởi về người yêu phương xa/ Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba... Em ơi nghe chăng lời trái tim vọng ra.../ Tiếng ca đời đời chung thủy thiết tha...

Bài hát ấy đã hơn nửa thế kỷ được hát lên, bắt đầu bằng tiếng hát của NSND Quốc Hương. Đó là lần đầu tiên Quốc Hương cất tiếng ca với lòng tha thiết của những người con miền Nam trên miền Bắc hướng về Nam. Quốc Hương hình như đã có duyên nợ gì đó với nhạc Hoàng Việt. Từ những ngày đương lưu lạc giữa Sài Gòn những năm bốn mươi, ông đã hát Tiếng còi trong sương đêm của Hoàng Việt (Lê Trực). Bài hát đã làm nên tên tuổi Quốc Hương giữa đô thành Sài Gòn trước lúc anh ra bưng biền kháng chiến.

Rồi những ngày trên miền Bắc, lại chính Quốc Hương hát Tình ca của Hoàng Việt. Bài hát sau đó bị ngưng lại do có người nhận xét rằng lời ca ủy mị, đau thương... Mười năm sau, khi Hoàng Việt nằm lại đất miền Nam, bài hát ấy của anh lại được Quốc Hương cất lên trên miền Bắc nhưng lần này với tâm trạng tự hào xen lẫn nhớ thương. Bài hát ấy lại đã thành một phần số phận người ca sĩ khi ở miền Nam, có một nữ thính giả tên là Nguyễn Lê Thu An đã mê bài ca và cả giọng ca gửi từ miền Bắc qua làn sóng phát thanh. Cô nữ sinh Thu An của Trường Trưng Vương ấy đã xuống đường tham gia phong trào học sinh, sinh viên chống Mỹ và đã bị bắt đày ra Côn Đảo cho tới khi miền Nam giải phóng.

Sau này, khi làm công tác Đoàn ở thành phố, Thu An đã tình cờ gặp lại người hát Tình ca năm xưa. Mối tình nảy nở khi chị nghe Quốc Hương hát Tình ca ngay giữa Sài Gòn ngày giải phóng: Giữ lấy đức tin bền vững em ơi/ Giữ lấy trái tim đòi sống yêu đời... Nghe tiếng anh cất lên, ai cũng cảm thấy nổi da gà. Một sự xúc động lạ lùng khiến chị không cầm được nước mắt...

Khi đã quen nhau, Quốc Hương cho biết nữ nghệ sĩ điện ảnh ấy chấp nhận chia tay để ở lại đất Bắc. Còn anh, anh nguyện sẽ về lại để hát và chết ở Sài Gòn... Một cuộc chia tay và một cuộc gặp gỡ như là duyên phận, từ bài Tình ca đã cho họ thuộc về nhau. Khi ấy, Quốc Hương đã 58 tuổi và chị mới 29 xuân xanh...

Không chỉ có Tình ca, Hoàng Việt đã viết những ca khúc bất hủ: Lên ngàn, Lá xanh, Nhạc rừng ngay trong những năm kháng chiến ở bưng biền Nam Bộ. Những bài hát của anh đã có sức lay động lớn lao, động viên đồng bào chiến sĩ góp phần vào cuộc kháng chiến trường kỳ anh dũng của dân tộc.

Còn nhớ Erenbua có nói đại ý rằng: Một tác phẩm nghệ thuật chân chính có sức lôi cuốn, trở thành sức mạnh đôi khi hơn cả một sư đoàn.

Tên thật của Hoàng Việt là Lê Chí Trực. Anh sinh tại Chợ Lớn năm 1928, nhưng quê nội lại ở Bà Rịa... Sớm có năng khiếu âm nhạc, từ rất sớm, mới 16, 17 tuổi anh đã viết Chị cả, Biệt đô thành, và nổi tiếng với bài Tiếng còi trong sương đêm được nhiều người yêu mến.

Nhạc sĩ Hoàng Việt và vợ.

Khi Pháp trở lại đánh chiếm Nam Bộ, như bao thanh niên trí thức yêu nước, Hoàng Việt, vừa mười tám tuổi giã từ thành phố để đi vào kháng chiến. Theo NS Minh Trị, người từng là thành viên ban nhạc Quân khu 8, Hoàng Việt lúc ấy là đội viên an ninh (Công an) thuộc tỉnh Bà Rịa. Những ngày Pháp chiếm đóng các đô thị lớn, lực lượng phân tán và anh bị mất liên lạc phải lánh vô Sài Gòn mưu sinh và để tìm cách bắt liên lạc với kháng chiến. Từ đây, anh đã tìm đến với cách mạng bằng hành trang âm nhạc và lòng phơi phới tuổi xuân. Tại Đồng Tháp Mười, anh công tác ở Đoàn Văn công Khu 8. Nhiều người kháng chiến năm xưa, bây giờ vẫn còn hát: Sở Thượng giang; Lá xanh; Ai nghe chiến dịch mùa xuân; Tin tưởng...

Nhà thơ Bảo Định Giang kể rằng những ngày Hoàng Việt về Đoàn Văn công phân Liên khu miền Đông Nam Bộ, cuộc sống đồng bào chiến sĩ lúc này quá nhiều gian khó. Anh đã cùng anh em đi lấy vật liệu làm lán trại để ở và chống cọp. Ngày ngày lên rừng chặt cây đốn gỗ nhưng chỉ có củ mì thay cơm, nhiều hôm thấy nhạc sĩ Hoàng Việt và họa sĩ Thanh Nha bụng đói chân run về đến nơi đã mệt nhoài mà cười ra nước mắt. Nhưng người nhạc sĩ ấy đã hòa mình vào đời sống chiến đấu của "Miền Đông gian lao mà anh dũng".

Vừa theo đoàn văn công đi biểu diễn phục vụ đồng bào chiến sĩ, Hoàng Việt còn say sưa sáng tác... Nhiều ca khúc để đời đã được viết trong hoàn cảnh thực tế như vậy: Bài Nhạc rừng làm khi đơn vị tăng gia tự túc trên chiến khu Dương Minh Châu. Còn Lên ngàn được viết vào lúc trận lụt lịch sử năm NhâmThìn 1952... ập đến khiến cuộc sống kháng chiến ở miền Đông Nam Bộ càng gian khó hơn… Trong gian khó ấy, Hoàng Việt đã tìm được nguồn động viên quân dân miền Đông gian lao bằng những ca khúc lạc quan yêu đời: Em đi cắt lúa trên ngàn/ Còn anh chiến đấu sa tràng/ Kháng chiến nhất quyết thành công/ Anh về em thỏa ước mong

Nhà thơ Bảo Định Giang nhớ lại: Đận ấy bộ đội và nhân dân rơi vào hoàn cảnh khó khăn vô cùng. Sau khi đi công tác Đức Hòa trở về, Hoàng Việt bảo anh về trước, còn anh ở lại Trảng Còng ven sông Vàm Cỏ Đông để đi tìm cảm hứng cho sáng tác. Khi trở về, bài hát Lên ngàn vừa xong Hoàng Việt đã hát lần đầu tiên bên cánh võng Bảo Định Giang. Vừa dứt lời ca, Bảo Định Giang bỗng nức nở khóc. Có lẽ bài ca mang tính bi tráng của cuộc kháng chiến gian lao mà anh dũng, một sự chấp nhận hy sinh gian khổ của cả một thế hệ nhằm giữ lấy mảnh đất quê hương.

Khi ra đi có hứa Thu nay về

Trong đoàn quân tập kết ra Bắc năm 1954 có người nhạc sĩ - chiến sĩ Hoàng Việt. Vào học Trường Âm nhạc Việt Nam trên đất Bắc, với nỗi nhớ thương quê hương miền Nam trào dâng lòng người nhạc sĩ, anh hình dung cảnh mẹ già và người vợ trẻ đêm ngóng ngày trông người đi tập kết chưa về, khi quân thù chia cắt lâu dài đất nước… Những năm tháng ngày Bắc đêm Nam ấy, Hoàng Việt đã viết Tình ca như muốn gửi về Nam tấm lòng những người đang xa. Và nối hận quân thù trào dâng đầu ngọn bút khi anh viết: Ta hát chung tiếng ca vang dội từ nghìn phương xa/ Xua kẻ thù đi mau, dập tắt chiến tranh đẫm máu/ Đập tan ngay bao đau khổ và chia ly...

Năm 1958, Nhà nước cho anh sang học âm nhạc tại Nhạc viện Sofia Bulgaria. Dù đang du học nước ngoài nhưng tâm hồn người nghệ sĩ luôn hướng về quê hương đang dưới ách quân thù. Nhạc sĩ Ca Lê Thuần kể rằng: Trong một bức ảnh gửi về cho bạn bè từ nước ngoài năm 1960, trên đó Hoàng Việt ghi: "Cho đến chết mới hết sáng tác cho đời". Câu lưu bút như một tuyên ngôn của người nghệ sĩ. Tài năng âm nhạc bẩm sinh và kiến thức âm nhạc hiện đại đã kết tinh trong bản giao hưởng Quê hương của anh. Quê hương được xem là một trong những bản giao hưởng đầu tiên ở Việt Nam. Tác phẩm mang tính sử thi, quy mô đồ sộ ghi dấu ấn trưởng thành của âm nhạc Việt. Bản giao hưởng đầu tiên mang âm hưởng quê nhà trên nền âm nhạc bác học. Đoạn kết mang tính chất vui tươi rộn rã thể hiện khát vọng về niềm vui trong ngày hội thống nhất non sông đất nước độc lập tự do...

Trở về Tổ quốc năm 1964, với bằng tốt nghiệp hạng ưu, Hoàng Việt công tác ở Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Năm 1965, sau khi trình diễn báo cáo bản giao hưởng của mình tại Nhà hát Lớn Hà Nội trong niềm trông đợi và chúc mừng của đồng nghiệp, anh xin được trở lại chiến trường miền Nam để tham gia đánh giặc và tiếp tục viết những bản giao hưởng khác về công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.

Cuối năm 1966 trong đoàn quân văn nghệ gồm trên 30 người trở về Nam do NS Lưu Hữu Phước, và nhà văn Nguyễn Quang Sáng chỉ huy, Hoàng Việt đã trở lại quê hương. Mười hai năm xa cách, ngày gặp lại người vợ của mình, giây phút hạnh phúc hiếm hoi trong chiến tranh thêm nung nấu ý chí chiến đấu giải phóng quê hương trong con người nghệ sĩ chiến sĩ ấy.

Trong xúc động nghẹn ngào, người vợ đã kể cho anh nghe nối khổ đau mong nhớ suốt 12 năm anh đi xa. Chỉ có bài hát Tình ca của anh vọng từ Bắc vào làm điểm tựa cho nỗi đợi chờ dằng dặc… qua bao nhiêu khảo tra, bắt sám hối của kẻ thù, lòng chị vẫn kiên trinh son sắt… Nhưng chiến tranh quái ác đã không để cho lứa đôi ấy được đoàn tụ lâu dài. Họ đã sống cho nhau và cho Tổ quốc trên hết và anh đã ngã xuống giữa chiến trường trong một ngày định mệnh.

Ngày ấy là ngày cuối cùng của năm 1967, khi quân Mỹ càn quét nơi có chiếc trực thăng của chúng bị bắn rơi. Cuộc tấn công bằng máy bay và hỏa tiễn của địch đã khiến anh và những đồng đội hy sinh bên dòng kinh quê mẹ ở Cái Bè, Tiền Giang cho đến nay vẫn không tìm thấy xác. Anh ngã xuống trong tư thế của người anh hùng ngoài mặt trận. Người nhạc sĩ gan góc ấy đã hy sinh khi mới 39 tuổi đời, lứa tuổi đương có nhiều cống hiến cho cuộc đời và âm nhạc.

Anh ra đi mà chưa kịp hoàn thành bản giao hưởng hoành tráng từng mơ ước mang tên "Cửu Long" viết về thành đồng Tổ quốc. Dâng hiến cả tài năng và cuộc đời cho cách mạng, người trai ấy đã hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cả tâm hồn tình cảm anh gửi lại Tổ quốc yêu dấu của mình. Anh xứng đáng là người nghệ sĩ, chiến sĩ anh hùng. Tên tuổi của anh sống mãi với thời gian, âm nhạc của anh vẫn được tấu lên giữa quê hương đất nước muôn đời như những khúc ca bi tráng của tình yêu quê hương đất nước. Anh ra đi nhưng những tác phẩm âm nhạc, những Tình ca, Quê hương của anh vẫn còn mãi trong lòng dân Việt.

Để nhớ người nhạc sĩ tài danh và một nhạc phẩm nổi tiếng, một người cháu ngoại của anh đã được đặt tên là Tình Ca. Nguyễn Thụy Tình Ca, nữ doanh nhân trẻ đẹp ấy hôm nay luôn tự hào được mang tên ca khúc bất hủ của người ông...

  • Tân Linh - Chuyên đề An ninh thế giới giữa tháng số 33


10 trẻ hoang dã lạ lùng trong xã hội hiện đại

Trong các tài liệu thế giới có ghi lại hàng trăm đứa trẻ hoang dã, được chó sói, khỉ, gấu… nuôi nấng, dựa trên những tin đồn. Dưới đây là 10 trường hợp đáng tin cậy hơn cả.

1. Shamdeo

Vào tháng 5 năm 1972, người ta tìm thấy một cậu bé chừng 4 tuổi trong khu rừng Musafirkhana, cách Sultanpur 20 dặm. Cậu bé đang chơi đùa với một bầy sói con. Da đen, móng tay dài uốn cong lại, tóc rối bù và bàn tay đầy chai, bò bằng khuỷu tay và đầu gối. Cậu có nhiều nét tương tự như Amala và Kamala, răng nhọn hoắt còn dính máu tươi, thành thạo việc săn gà rừng, thích bóng tối và kết bạn với cả chó sói lẫn chó rừng. Người ta đặt tên cho cậu là Shamdeo và mang về làng Narayanpur. Dù đã không ăn thịt sống nữa, nhưng cậu chưa bao giờ nói được một tiếng nào, chỉ học được ở mức tối thiểu cách ra dấu để diễn tả một điều đơn giản nào đó. Năm 1978, cậu được đưa về Nhà tế bần do Mẹ Theresa lập ra. Cậu chết vào tháng hai năm 1985.

2. Cô gái hoang dã ở Champagne

Rất có thể cô bé hoang dã xứ Champagne đã học nói được vài từ trước khi bị rơi vào tay bầy thú, vì cô là trường hợp rất hiếm hoi nói được cả một câu mạch lạc. Thực đơn của cô gồm chim chóc, cá, ếch nhái, lá cây, rễ cây. Đưa cô một con thỏ, lập tức, cô biết cách dùng móng tay nhọn và cứng của mình lột da nó và chén ngon lành.

“Các ngón tay của cô, đặc biệt là ngón cái, to lạ lùng”, theo nhân chứng cùng thời, là nhà khoa học nổi tiếng Charles Marie de la Condamine. Bà kể, cô bé lấy ngón cái đào rễ cây và truyền từ cây này sang cây khác nhẹ nhàng như một con khỉ. Cô chạy rất nhanh và nhìn tinh vô cùng. Khi Hoàng hậu Ba Lan, mẹ của Hoàng hậu Pháp đến thăm con ở Champagne năm 1737, bà mang cô đi săn. Cô đã chạy thoăn thoắt và tay không bắt được thỏ.

3. John Ssebunya

Một hôm vào năm 1991, một người dân trong làng tại Uganda, bà Milly Sebba vào rừng kiếm củi và thấy một cậu bé giữa bầy khỉ. Bà lao đến, đuổi theo, bắt được cậu từ trên cành cây và mang về làng. Đầu gối của cậu trơn nhẵn vì di chuyển bằng cách bò. Móng tay dài và cuộn vòng tròn. Người ta nhận ra cậu, vốn là con ông John Sesebunya, không hiểu vì lý do gì mà năm 1988 đã giết vợ, vứt con vào rừng và bỏ trốn khi cậu đã lên 2, bắt đầu có trí nhớ và đã tập nói đôi chút.

Trở về với họ hàng, cậu học nói lại và kể lại, trong rừng, bọn khỉ đã mang cậu về nuôi, cho cậu ăn rễ cây, hạt dẻ, khoai lang và sắn mà ban đêm, chúng lẻn về làng ăn cắp được. Bọn khỉ con chơi đùa với cậu suốt 2 tuần liền, dạy cậu leo trèo và tìm thức ăn. Hiện cậu đã 23 tuổi, được một gia đình người Anh nuôi và tuy sống rất khép kín, luôn sợ sệt nhưng cũng hòa nhập được với gia đình bố mẹ nuôi.

4. Cậu bé linh dương Syria

Jean-Claude Auger, một nhà nhân chủng học xứ Basque, một mình đi du lịch qua sa mạc Sahara thuộc Tây Ban Nha (Rio de Oro) năm 1960. Ông gặp một vài người du mục Nemandi, kể với ông về một cậu bé hoang dã. Hôm sau, ông đi theo hướng họ chỉ. Ông trông thấy một đứa trẻ trần truồng “phóng như bay giữa bầy linh dương”.

Cậu bé cũng chạy trên bốn chân, nhưng đôi lúc cũng đứng thẳng trên chân sau, khiến Auger có cảm giác rằng cậu bị lạc hoặc bỏ rơi mới chỉ 7, 8 tháng. Giống như những con linh dương khác, câu biết co các cơ, da đầu, mũi, hoặc vểnh tai lên nghe ngóng những tiếng động lạ. Cậu lấy răng ngoặm từng búi cỏ lên ăn, phập phồng lỗ mũi giống những con linh dương đánh hơi. Ngoài việc ăn cỏ, cậu còn ăn những con kỳ giông sa mạc và sâu bọ.

Năm 1966, người ta đã chăng lưới từ máy bay trực thăng để bắt cậu mà không được. Cậu bé linh dương chưa bao giờ bị cách ly khỏi những bè bạn trong bầy.

5. Oxana Malaya

Oxana Malaya (sinh tháng 11/1983) được tìm thấy như một đứa trẻ hoang dã năm 1991 khi đã lên 8 tại Ukraina và đa số thời gian cô sống chung với chó. Cô có nhiều thói quen của chó và rất vất vả trong việc học nói. Bố mẹ cô nghiện rượu nặng, say sưa suốt ngày, sống trong một khu phố nghèo khổ, có rất nhiều chó hoang lang thang ngoài đường. Không nuôi nổi con gái, bố me cô để mặc cho cô tự sống và cô tìm đến ở trong một cũi chó bẩn thỉu. Lũ chó nuôi cô và cô học những hành vi, cách sống của chúng. Cô bò bốn chân, sủa, gào rú và chui lủi dưới cống rãnh giống hệt một con chó hoang. Đánh hơi và nhăn mũi hít cẩn thận một một thứ gì đó trước khi ăn. Cuộc sống hoang dã giúp cô có mũi và tai cực thính, mắt tinh và lẩn trốn rất nhanh.

6. Prava, cậu bé người chim

Trường hợp mới đây nhất của “hội chứng Mowgli” là cậu bé người chim, tên là Vanya Yudin, bảy tuổi được các nhân viên y tế Nga cứu sống sau khi phát hiện ra cậu ở một căn hộ rất đông những người bạn lông vũ cùng với mẹ bị mắc bệnh tâm thần, sau khi bố mẹ bà ta đột ngột chết và người chồng bỏ đi.

Đó là một căn hộ nhỏ um tùm, hoang vắng, xa dân cư nên chưa bao giờ có người mò đến. Trong vườn đầy những chiếc lồng và hàng trăm con chim. Trong một cuộc phỏng vấn người đã giải cứu cậu, cô nhân viên xã hội hoc Galina Volskaya cho biết, bà mẹ cậu đối xử với cậu như đối với một con thú, tuy không làm hại cậu gì nhưng nhốt cậu ngoài vườn từ khi cậu chưa biết đi và chẳng bao giờ nói với cậu một lời. Chỉ có chim chóc là “giao lưu” với cậu.

“Cậu ấy chỉ biết kêu chiêm chiếp và không hiểu người khác nói gì, chỉ vẫy hai cánh tay như chim vỗ cánh”, cô Galina nói.

7. Cậu bé báo

Toàn quyền Stuart Baker thông báo trên Tạp chí Journal of the Bombay Natural History Society (tháng bảy 1920) một trường hợp người hoang dã – cậu bé báo. Năm 1912, một con báo cái tại North Cachar Hills gần Assam đã bắt một đứa trẻ trong vùng nhưng không ăn thịt mà nuôi trong hang của nó.

Ba năm sau, người ta gặp lại nó “chạy trên bốn chân, nhanh như một người trưởng thành, lẩn trốn trong các bụi rậm và vượt qua các vật cản, thông minh và nhanh nhẹn hơn bất cứ người nào. Đầu gối nó là một miếng chai to và cứng. Các ngón chân nó thẳng đứng với mặt đất. Những ngón tay, ngón chân cũng được phủ một lớp da cứng như sừng.

Lần đầu tiên bị bắt, nó cắn và chống cự mãnh liệt. Người nào bị nó vồ được thì thật bất hạnh, nó dùng miệng rứt ra từng miếng thịt và ăn cực nhanh”.

8. Kamala và Amala

Trẻ em người sói nổi tiếng nhất là hai chị em gái bị dân làng bắt về dưới sự chỉ huy của ông đồn trưởng ngưới Anh là Jal Singh vào tháng mười năm 1920 tại một khu rừng chỉ có chó sói sinh sống gần Godamuri, phía bắc Calcutta. Chó sói mẹ bị bắn chết. Hai cô bé hoang dã được đặt tên là Kamala chừng 8 tuổi và Amala, chừng lên hai.

Theo ông Singh, hàm của hai cô gái đều biến dạng, mồm và răng vêu ra, mắt sáng lấp lánh trong bóng tối, có ánh xanh của mèo và chó. Ngay năm sau Amala bị chết, còn Kamala sống đến năm 1929. Lúc đó, nghĩa là sau 9 năm trời sống với người và được dạy dỗ, cô mới thôi bắt quạ để ăn, biết cách đứng thẳng trên hai chân và phát âm được 50 từ.

9. Cô gái gấu

Năm 1937 George Maranz kể lại cuộc viếng thăm một nhà thương điên Thổ Nhĩ Kỳ ở Bursa. Tại đây ông đã gặp một cô gái từng sống với gấu trong nhiều năm. Những người thợ săn vùng rừng núi gần Adana đã bắn trúng môt con gấu cái, và sau đó, khi trời tối mịt, họ trở về làng thì bị một “thần rừng” nhỏ bé tấn công một cách hung tợn. Cuối cùng họ bắt được một cô bé, mà các động tác, tiếng kêu thì hoàn toàn là gấu. Cô ta không chịu ăn tất cả các món ăn đã nấu chín, nằm ngủ trên một tấm vải ở góc tối nhất trong phòng. Người làng nhận ra 14 năm về trước, khi lên hai, cô bị mất tích. Thì ra cô bị gấu bắt mang về nuôi.

10. Peter hoang dại

Đứa trẻ hoang dã thực sự nổi tiếng nhất là “Peter hoang dại”, một cậu bé trần truồng, da nâu, tóc đen, bị bắt gần Helpensen ở Hanover năm 1724, khi đã 12 tuổi. Cậu leo trèo và tung mình từ cây này sang cây khác chẳng khác gì một con vượn thực sự, chỉ có điều hiểu rất chậm và không biết nói. Cậu từ chối bánh mì, thích bóc lớp vỏ của những cành cây xanh và hút nhựa cây, nhưng đôi khi cũng ăn quả và rau.

Nười ta đã đưa cậu đến trình diện tại triều đình vua Georg tại Hanover và mang sang Anh làm đối tượng nghiên cứu. Peter sống tới năm 68 tuổi, nhưng chẳng nói được tiếng nào trừ hai từ Peter và King Georg, dù hai giác quan nghe và ngửi của Peter rất tinh tường.