I. TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA
TRIẾT HỌC
1. Khái niệm
triết học
Triết học xuất
hiện khoảng thế kỷ thứ VIII - VI trước công nguyên ở thời kỳ cổ đại gắn liền
với sự hình thành và phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ với tính cách là một
khoa học, một hình thái của ý thức xã hội. Nhưng nếu xem xét triết học trong
quá trình hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng xã hội thì những tư
tưởng triết học xuất hiện rất sớm được thể hiện ở những tư tưởng đạo đức, tôn giáo và thẩm mỹ trong xã
hội nguyên thủy. Đặc biệt, trong lịch sử tư tưởng phương Đông. Đó là những tư
tưởng triết học trong “Kinh dịch” và “Vêda” của thời thượng cổ của Trung Hoa
và Ấn Độ.
Kinh dịch, được
xây dựng trên quan niệm âm – dương. Chúng ta không biết chính xác nó xuất hiện
vào thời gian nào, nhưng theo các nhà nghiên cứu thì kinh dịch xuất hiện trễ
lắm là vào thời kỳ nhà Ân (thế kỷ XVII trước công nguyên) vì nó phải xuất hiện
trước khi người Trung Hoa sử dụng biểu tượng về thái cực và bát quát trong thời
kỳ Ân – Thương và Tây Chu. Tư tưởng triết học về âm – dương, thể hiện ở thái
cực trong kinh dịch, có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó về
những yếu tố khởi nguyên. Nhưng có sự kết hợp không tự giác giữa những tư tưởng
duy vật, duy tâm và tôn giáo khi giải thích về nguồn gốc của vũ trụ và vai trò
của con người dưới các hình thức khác nhau.
Vêda là bộ kinh
cổ xưa nhất của Ấn Độ ra đời vào cuối thiên niên kỷ thứ II và đầu thiên niên kỷ
thứ nhất trước công nguyên. Những tư tưởng triết học trong kinh Vêda đều bắt
nguồn từ thế giới quan thần thoại và tôn giáo đa thần, để lý giải về vũ trụ và
con người.
Như vậy, việc khẳng
định triết học ra đời khoảng thế kỷ thứ VIII – thế kỷ VI trước công nguyên với
tính cách là một khoa học, còn những tư tưởng triết học được thể hiện trong
“Kinh dịch” hoặc ở thánh kinh “Vêda” theo nghĩa là những quan niệm triết học cổ
xưa, có tính chất triết học hơn là những học thuyết triết học theo đúng nghĩa.
Tuy vậy, những quan niệm triết học đó cũng là cơ sở để hình thành và phát triển
trong hệ thống lý luận của các trường phái triết Trung Hoa và Ấn Độ cổ đại về
sau.
Thuật ngữ triết
học đã xuất hiện trong thời kỳ cổ đại dưới nhiều ngôn ngữ. Triết học theo chữ
Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng, bao hàm sự hiểu biết sâu rộng của
con người về hiện thực và vấn đề đạo lý của con người. Theo người Ấn Độ, triết
học là Darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy
ngẫm để dẫn dắt con người đến lẽ phải. Theo chữ Hy Lạp triết học là “yêu mến sự thông thái” hoặc “làm bạn với trí
tuệ”, xuất phát từ một thành ngữ la tinh là philosophia.
Như vậy, nội dung thuật ngữ triết học theo
quan điểm của các nhà triết học cổ đại, bao hàm hai yếu tố: đó là yếu tố nhận thức (sự hiểu biết của con
người, sự giải thích hiện thực bằng hệ thống tư duy lôgíc) và yếu tố nhận định (đánh giá về mặt đạo lý để
có thái độ và hành động) về mặt xã hội. Dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay
từ đầu, triết học biểu hiện khả năng nhận thức và đánh giá của con người về
hiện thực, nó tồn tại với tính cách là một hình thái ý thức xã hội.
Ở các thời đại
về sau, các nhà triết học có khuynh hướng lý giải đối tượng và vai trò của
triết học trong các lĩnh vực tinh thần của xã hội, hơn là giải thích về thuật
ngữ triết học là gì. Đó là vấn đề xác định ngày một mở rộng hơn đối tượng
nghiên cứu của triết học và mối quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể.
Chẳng hạn, theo I.Can tơ[1]: “Có thể quy triết học theo nghĩa rộng về các vấn đề
sau đây:
1). Tôi có thể biết
gì?
2). Tôi cần phải
làm gì?
3). Tôi có thể hy
vọng vào cái gì?
4). Con người là
gì?
Ở một phương
diện khác, Hêghen[2] lại cho rằng: “Triết học là sự tổng kết lịch sử tư duy”
và ông còn nhấn mạnh rằng: "Tôi
biết nhiều khoa học tuyệt vời,
nhưng tôi không biết khoa học
nào tuyệt vời hơn triết học". "Dù có cố gắng suy luận mà không quan
tâm đến triết học, các khoa học
khác thiếu nó thì vẫn không thể có sự sống, tinh thần, chân lý"…
Trải qua quá
trình hình thành và phát triển của triết học, đã có rất nhiều quan điểm khác
nhau về triết học. Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có những quan điểm
chung. Đó là, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính
khái quát, nghiên cứu thế giới trong tính chỉnh thể thống nhất, tìm ra các qui
luật phổ biến của nó trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Khái quát lại,
có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri
thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí và vai trò của con
người đối với thế giới.
Hệ thống tri
thức lý luận chung nhất của con người về thế giới là các hệ thống lý luận của
triết học với tính cách là một khoa học và nó khác với hệ thống lý luận của các
khoa học cụ thể ở tính chất chung và phổ biến nhất của nó về hiện thực.
Sự ra đời của
triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận
thức,
khẳng định triết học chỉ xuất hiện khi mà trình độ nhận thức của con người có
khả năng khái quát và trừu tượng hóa những cái riêng lẻ, cụ thể để nắm bắt được
cái chung, cái bản chất và qui luật của hiện thực, với tính cách là tư duy lý
luận. Bởi, đối tượng triết học là thế giới vật chất và con người được nó nghiên
cứu dưới dạng các qui luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguồn gốc xã hội, khẳng định
triết học chỉ xuất hiện khi lao động xã hội phân chia thành lao động trí óc và
lao động chân tay gắn liền với sự ra đời và phát triển của xã hội chiếm hữu nô
lệ và sự phân chia xã hội thành giai cấp. Cho nên, triết học mang tính giai cấp. Bởi, nó phản ánh và
bảo vệ lợi ích cho những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định với tính
cách là nội dung cơ bản trong hệ tư tưởng của các giai cấp khác nhau…
2. Đối tượng
nghiên cứu của triết học
Đối tượng của
triết học là thế giới vật chất và con người được triết học nghiên cứu dưới dạng
các qui luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên, đối tượng
nghiên cứu của triết học cũng thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử.
Thời
cổ đại,
khi mới xuất hiện phân chia lao động trí óc và lao động chân tay, chưa có sự
phân chia giữa triết học với các khoa học cụ thể, nên đối tượng nghiên cứu của
triết học và khoa học cụ thể về cơ bản thống nhất với nhau. Triết học cổ đại
Trung Hoa gắn liền với vấn đề chính trị - xã hội, triết học cổ đại Ấn Độ gắn
liền với tôn giáo; còn triết học cổ đại Hy Lạp gắn liền với khoa học tự nhiên
và gọi là triết học tự nhiên. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm
sau này coi triết học là khoa học của các khoa học. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này đã
đạt được nhiều thành tựu và những tư tưởng của nó ảnh hưởng to lớn đối với sự
lịch sử phát triển của triết học cũng như các khoa học cụ thể ở các thời đại về
sau.
Thời trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo
hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội dẫn đến triết học tự nhiên bị
thay thế bởi triết học kinh viện, phụ
thuộc vào thần học; triết học chỉ còn nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho Kinh
thánh của đạo Thiên chúa giáo.
Sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học ở thế kỷ XV, XVI đã tạo ra cơ sở vững chắc cho sự phục
hưng triết học và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, các khoa học chuyên ngành,
nhất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập
so với triết học. Chủ nghĩa duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực
nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đã đạt tới đỉnh cao ở thế kỷ XVII – XVIII
như chủ nghĩa duy vật của Ph.Bêcơn[3],
T.Hốpxơ[4],
Điđrô[5],
Xpinôza[6]…
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Mặt khác, tư duy
triết học cũng được phát triển trong chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là triết học
Hêghen trong triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII - XIX.
Điều kiện kinh
tế – xã hội và sự phát triển của khoa học đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời
của triết học Mác, đoạn tuyệt với quan niệm triết học là “khoa học của các khoa
học”. Triết học Mác xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải
quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và
nghiên cứu các qui luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học phương
Tây hiện đại[7] muốn từ
bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho
mình. Đó là những khuynh hướng tiếp
tục ý đồ vượt lên trên sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm;
xa rời phép biện chứng; phá vỡ sự thống nhất giữa bản thể luận, nhận thức và
lôgíc học… Ở một phương diện khác, triết học phương Tây hiện đại cũng đã đặt ra
những vấn đề cấp bách về mối quan hệ giữa triết học và khoa học và tính chất
chuyên ngành trong triết học; nhưng nhìn chung, họ chưa giải quyết một cách
triệt để của một số vấn đề cấp bách đó.
Cố nhiên, triết học bao giờ cũng đặt ra và
giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận, như
vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế
giới của vật chất, về khả năng nhận thức của con người ở các phương diện khác
nhau.
3. Vấn đề cơ bản
của triết học
Trong
tác phẩm “Lút vích Phoiơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ph.Ăngghen
đã viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, nhất là triết học hiện đại là
vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại; giữa ý thức và vật chất, giữa tinh thần
và giới tự nhiên”[8].
Vấn
đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt
thứ nhất
nhằm xác định ngôi thứ, tính quyết định hay phụ thuộc trong mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức để trả lời câu hỏi, giữa ý thức hay vật chất cái nào có
trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào?
Mặt
thứ hai
nghiên cứu khả năng nhận thức của con người về hiện thực khách quan để trả lời
câu hỏi, con người có hay không có khả năng nhận thức được hiện thực hay không?
Mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học:
-
Vật chất và ý thức là hai phạm trù rộng lớn nhất của triết học và đồng thời nó
cũng là nội dung cơ bản được xác định trong đối tượng nghiên cứu của triết học.
Đối tượng nghiên cứu của triết học là thế giới vật chất và con người. Triết học
nghiên cứu các qui luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Xét cho cùng là
nghiên cứu bản chất của mọi sự tồn tại, đó là vật chất và ý thức.
-
Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là một tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt sự giống nhau, khác nhau giữa các trường phái triết học. Ví dụ:
Trường phái triết học nào thừa nhận vật chất có trước, quyết định ý thức, ý
thức là cái có sau phụ thuộc vào vật chất, - đó là triết học duy vật. Đối lập
với quan niệm này triết học duy tâm.
-
Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận chung về thế
giới quan và phương pháp luận của triết học. Nhất là nghiên cứu mối quan hệ
giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội.
4.
Các trường phái triết học
a. Chủ nghĩa duy
tâm (Idéalisme)
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái nhất nguyên luận và có hai hình
thức:
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ
nghĩa duy tâm khách quan.
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan (Idealime subjectif) là trường phái
triết học, về nguyên tắc thừa nhận tính thứ nhất của ý thức đối với vật chất.
Song ý thức không đơn thuần là năng lực phản ánh của bộ não con người về hiện
thực, mà là cái có sẵn trong bộ não con người, là cái quyết định thế giới vật
chất và kể cả hoạt động tinh thần của con người. Ví dụ: theo quan điểm của Béccơli[9]:
“Tồn tại - có nghĩa là được nhận thức” hoặc quan điểm của Đềcáctơ[10]:
“Tôi tư duy vậy tôi tồn tại”.
- Chủ nghĩa duy
tâm khách quan (Idealime “objectif”) là
trường phái triết học về nguyên tắc, cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
đối với vật chất, nhưng đó là ý thức khách quan, có trước, quyết định đối với
hiện thực và con người. Ý thức khách quan thường được các nhà triết học duy tâm
gọi bằng các tên như Platôn[11]
là “ý niệm”, Hêghen: “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần thế giới”... theo nghĩa đó,
ý thức khách quan là một thực thể thuần túy trừu tượng như linh hồn, hoặc là
các lực lượng siêu nhiên.
Trong việc giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt
thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy tâm đều thừa nhận ý
thức là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định vật chất còn vật chất là
tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào ý thức. Giải quyết mặt thứ hai
trong vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy tâm không phủ nhận khả năng
nhận thức của con người nhưng họ coi khả năng nhận thức của con người phụ thuộc
vào chính bản thân ý thức (cảm giác chủ quan thuần túy) hoặc do sự quyết định
của các lực lượng siêu nhiên (ý niệm - ý niệm tuyệt đối).
Như vậy, chủ nghĩa duy tâm là quan điểm nhất nguyên luận. Bởi, mỗi một trường
phái đều xuất phát từ quan điểm duy nhất là thừa nhận ý thức là cái có trước, cái
quyết định vật chất, làm nguyên lý xuất phát với tính cách là cơ sở lý luận
chung cho hệ thống lý luận triết học của mình.
b. Chủ nghiã duy vật (Matérialisme)
Chủ nghĩa duy vật là trường phái nhất
nguyên luận và có ba hình thức cơ bản:
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại (Matérialisem vulgaire -
duy vật tự phát, chất phác).
Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật
chất phác, ngây thơ, xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ, Trung Hoa,
Hylạp. Bởi vì, xét về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống lại những tư
tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng về mặt phương pháp luận
thì chưa có cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa
vào tri thức kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái
quát khoa học của bản thân tri thức triết học. Quan niệm về thế giới là vũ trụ,
là vạn vật… vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính của vật thể cụ thể…còn ý
thức là linh hồn, là cảm giác…
Khi đánh giá về những mặt tích cực trong phép biện
chứng duy vật cổ đại, Ph.Ănghen đã viết: Quan niệm về thế giới một cách nguyên
thủy, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy
lạp thời cổ, và nguời đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Hêracơlít[12]: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn
tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn
ở trong quá trình xuất hiện và biến đi (chuyển hoá thành cái khác).
Như vậy, chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của
các nhà triết hoc duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa
nhận tính thứ nhất của vật chất và đã đồng nhất vật chất với một số chất cụ thể
và những kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy
còn nhiều hạn chế, nhưng quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật chất phác
cổ đại về cơ bản là đúng. Vì khi nghiên cứu giới tự nhiên họ đều trên cơ sở
nghiên cứu các yếu tố của bản thân giới tự nhiên để giải thích về giới tự
nhiên, mà không viện đến thần linh hay Thượng đế.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình (Materialisem
taphysique).
Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh hướng
phát triển của triết học duy vật từ thời kỳ phục hưng đến thời cận đại. Chủ
nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể
hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao ở thế kỷ
XVII – XVIII. Đây là thời kỳ cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên
trong khi tiếp tục phát triển quan điểm duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật
giai đoạn này chịu sực tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy
móc – phương pháp nhìn nhận thế giới như một tổng thể các sự vật, hiện tượng
tạo nên trong trạng thái biệt lâp, tĩnh tại.
Trước đây, tri thức của các lĩnh vực khoa học còn là
một bộ phận trực tiếp của triết học. Đến thời kỳ này nảy sinh nhu cầu các ngành
hoa học cụ thể tách ra khỏi triết học trở thành các ngành khoa học cụ thể, độc
lập; dùng phương pháp nghiên cứu thật chi tiết nhằm phát hiện các thuộc tính,
những qui luật của vật chất như tính năng, tác dụng, độ bền vật liệu… Từ đó làm
xuất hiện phương pháp mới trong khoa học tự nhiên – phương pháp thực nghiệm và
cũng trên cơ sở đó, xuất hiện sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình.
Phương pháp này xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, không vận
động, không biến đổi, không phát triển, đó là hệ quả của điều kiện lịch sử phát
triển của khoa học ở thế kỷ XVII – XVIII.
Triết học duy vật thời kỳ phục hưng và cận đại, đại
diện cho những tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ, họ đã tiến hành đấu tranh
chống chủ nghĩa kinh viện, nhà thờ trung cổ. Trong số các đại biểu cơ bản của
triết học duy vật thời kỳ này là triết học duy vật Khai sáng Pháp với những
quan điểm tiến bộ của La Mêri[13], Đidrô[14], Hônbách[15]… chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
- Chủ nghĩa duy
vật Biện chứng (Materialisme dialectique)
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ
ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác – Ph.Ănghen xây dựng vào những năm 40 của
thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các
học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương
thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được
những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu
hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới
quan duy vật biện chứng và phương pháp nhận thức khoa học.
Tóm lại, chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học nhất
nguyên luận tuy tồn tại dưới các hình thức khác nhau, nhưng đều giống nhau khi
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ
bản của triết học, chủ nghĩa duy vật đều thừa nhận vật chất là tính thứ nhất,
là cái có trước, cái quyết định đối với ý thức còn ý thức là tính thứ hai, cái
có sau, cái phụ thuộc vào vật chất. Giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản
của triết học thì chủ nghĩa duy vật khẳng định con người có khả năng nhận thức
thế giới.
c. Một số các
trường phái triết học khác
- Triết học nhị
nguyên luận (do chữ la tinh dualis có
nghĩa là hai). Khuynh hướng triết học thừa nhận ngược lại với thuyết nhất
nguyên luận (duy vật và duy tâm), rằng nguyên lý của sự tồn tại không phải là
một mà là hai thực thể khác nhau, một thực thể vật chất và một thực thể tinh thần,
hai thực thể ấy phủ định và đấu tranh với nhau. Nhị nguyên luận là khuynh hướng
triết học điều hoà giữa triết học duy vật và triết học duy tâm. Ví dụ: Theo
quan điểm của Đềcáctơ coi cơ sở của mọi sự tồn tại được cấu tạo bằng hai thực
thể vật chất và tinh thần, hoặc theo quan điểm của triết học Phật giáo: “thế
giới vật chất và con người vừa tồn tại và không tồn tại”, “thế giới vật chất
được cấu tạo bởi danh (tinh thần) và sắc (vật chất)…
- Triết học hoài
nghi luận – Thuyết không thể biết (do chữ
Hy Lạp skeplikos; skep – tomai có nghĩa là: tôi thẩm tra). Khuynh hướng triết
học biểu thị sự hoài nghi cho rằng không thể đạt được chân lý khách quan. Những
nhà triết học nhị nguyên luận đề cao sự hoài nghi lên thành nguyên tắc; họ nói rằng:
đối với mỗi sự vật có thể có hai ý kiến trái ngược nhau, tức là khẳng định hoặc
phủ định; do đó tri thức của con người về các sự vật là không thể tin được. Vì
vậy, họ đi đến khẳng định: khoa học là một hệ thống tri thức mở và điều quan
trọng nhất của khoa học là phương pháp tiếp cận, là hoài nghi khoa học...
Hoài nghi luận là một khuynh hướng triết học cho rằng
con người không thể hiểu biết được thế giới hay ít ra là không thể nhận thức
được bản chất của thế giới. Những đại biểu nổi tiếng của khuynh hướng triết học
này là Hium (nhà triết học Anh thời cận đại) và Cantơ (nhà triết học cổ điển
Đức thế kỷ XVIII – XIX). Theo Hium, chẳng những chúng ta không thể biết được sự
vật như thế nào, mà cũng thể biết được sự vật đó có tồn tại hay không. Còn
Cantơ thì thừa nhận có một thế giới sự vật tồn tại, ông gọi là “vật tự nó”;
nhưng chúng ta không thể nhận thức được bản chất thế giới ấy mà chỉ nhận thức
được những hiện tượng của nó. Quan niệm này của Cantơ một mặt không phủ nhận
khả năng nhận thức của con người về hiện thực, nhưng khả năng có mang tính
tương đối, hữu hạn; mặt khác lại phù nhận khả năng nhận nhận thức có tính vô
hạn, tuyệt đối của con người về hiện thực. Nhưng nếu từ đó phủ nhận khả năng
nhận thức của con người về hiện thực thì rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
- Triết học tôn
giáo
Tôn giáo là một hình thái của ý thức xã hội, phản ánh thế giới
hiện thực một các hoang đường, hư ảo và thần thánh hóa. Tôn giáo xuất hiện rất
sớm, lúc đầu nó gắn liền với đạo đức và nghệ thuật, thần thọai và các truyền
thuyết... Ph.Ăngghen đã nêu ra một định nghĩa kinh điển về tôn giáo: “Bất cứ
tôn giáo nào cũng đều là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc người ta sức mạnh ở bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh mà trong đó những
sức mạnh ở trần gian đã mang hình thức sức mạnh siêu trần gian”[16].
Triết học tôn
giáo là khuynh hướng triết học có tính đặc thù so với các trường phái triết học
khác như chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, nhị nguyên luận…Bởi vì, sự hình
thành và phát triển của trường phát triết học này thường gắn liền với sự hình
hành và phát triển của các tôn giáo cụ thể khác nhau trong lịch sử triết học,
nhưng không đồng nhất với hệ thống giáo lý của các tôn giáo cụ thể đó. Song nó
lại là thế giới quan và phương pháp luận cho hệ thống giáo lý của các tôn giáo
cụ thể đó. Bởi vì, chúng ta không thể nghiên cứu triết học tôn giáo ví như
nghiên cứu triết học Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo đến triết học Kinh viện
(thần học trong thời kỳ trung cổ ở phương Tây) hay chủ nghĩa Tômát mới (trong
triết học tư sản hiện đại) mà không nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển
của các tôn giáo đó.
Đặc điểm cơ bản của triết học tôn giáo là nghiên cứu
về vấn đề tâm linh, đời sống tâm lý của con người gắn liền với tư tưởng của các
tôn giáo nhất định. Chính vì vậy, vấn đề tâm lý tôn giáo và tư tưởng tôn giáo
như tình cảm, niềm tin, tập quán và biểu tượng tín ngưỡng tôn giáo cho đến
những quan điểm tôn giáo phát triển thành những giáo lý tôn giáo trở thành thế
giới quan tôn giáo được thể hiện theo quan điểm của những giai cấp khác nhau
(trong xã hội có giai cấp) cũng là sự vận dụng những tư tưởng triết học tôn
giáo của các giai cấp khác nhau trong lịch sử.
Những biểu tượng triết học tôn giáo là một “ý niệm”
gắn liền trước hết với lĩnh vực đạo đức với ý nghĩa cuộc sống của con người.
Theo ý thức tôn giáo, bất kể mọi sự không hoàn thiện của cuộc sống trần gian,
thì Thượng đế, Đức Chúa trời… bảo đảm cho
sự tất thắng, là sự trong sáng trong sự tương phản muôn đời giữa thiện và ác,
công bằng và bất công, đạo đức và sự ngang trái... Người tin vào Thượng đế.
Đức Chúa trời… sẽ sống một cách “thánh thiện” hơn... Nhưng niềm tin của bất kỳ
tôn giáo nào cũng là sự phản ánh hoang đường về hiện thực và về cơ bản là đối
lập với khoa học. Cho nên, chúng ta phải thấy được những mặt hạn chế của tôn
giáo, nhưng đồng thời cũng không thể phủ nhận vai trò của tôn giáo đối với quá
trình hình thành, phát triển phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá của các
nền văn hoá khác nhau. Nhất là vấn đề tính ngưỡng dân gian, tín ngưỡng tôn giáo
trong đời sống tinh thần, đời sống tâm linh của nhân dân.
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Nâng
cao trình độ nhận thức khoa học tuyên truyền giáo dục tư tưởng vô thần khoa học
cho mọi người. Chống lại sự lạm dụng tôn giáo của các thế lực phản động, đoàn
kết các tôn giáo vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước ta là
một quá trình phức tạp trên cơ sở bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống xây dựng một nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa.
II. TÍNH
QUI LUẬT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC.
1. Đặc điểm chung của sự hình thành lịch sử tư tưởng
triết học
Thứ nhất, lịch sử hình thành và phát
triển của triết học đều phụ thuộc vào lịch sử phát triển của các phương thức
sản xuất vật chất nhất định. Bởi vì lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử hình
thành và phát triển của các phương thức sản xuất vật chất khác nhau. Đó là từ
phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ đến phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ làm xuất hiện triết học cổ đại, còn
phương thức sản xuất phong kiến ở Tây Âu dẫn đến sự ra đời triết học thời kỳ
trung cổ...
Là một hình thái của ý thức xã hội, một bộ
phận của kiến trúc thượng tầng nên sự hình thành và phát triển của triết học
đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Theo nghĩa đó, nghiên
cứu lịch sử hình thành và phát triển các tư tưởng triết học không thể tách rời
những điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện giai cấp và đấu tranh giai cấp đã
làm xuất hiện các tư tưởng triết học khác nhau.
Thứ hai, sự phát triển của khoa học
ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung, hình thức và ý nghĩa của các học thuyết triết
học. Bởi vì, sự hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng triết học,
một mặt khái quát những thành tựu của khoa học; mặt khác nó phải đáp ứng những
yêu cầu phát triển của khoa học trong từng giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy, đối
tượng nghiên cứu của triết học cũng thay đổi và phát triển không chỉ phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội nhất định mà còn chịu sự tác động bởi sự phát
triển của khoa học dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn, triết học cổ đại Hy Lạp gắn liền với khoa học tự nhiên và gọi
là triết học tự nhiên. Hoặc chủ nghĩa duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa
học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đã đạt tới đỉnh cao ở thế kỷ XVII
– XVIII làm xuất hiện triết học duy vật siêu hình.
Thứ ba, lịch sử hình thành và phát triển
của triết học, dù thể hiện dưới cách hình thức và điều kiện lịch khác nhau thì
nó đều thông cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và duy tâm. Sự đối lập giữa
các trường phái triết học, nhất là duy vật và duy tâm vừa có tính mâu thuẫn,
nhưng lại bao hàm sự thống nhất trong nội tại lịch sử tưởng của triết học.
Chẳng hạn, khi chúng ta nghiên cứu triết học Hy Lạp thì không thể không nghiên
cứu sự đối lập giữa các trường phái triết học duy vật và triết học duy tâm. Đặc
biệt, là sự đối lập giữa triết học duy tâm Platôn và triết học duy vật của
Đêmôcơrít. Hoặc khi nghiên cứu triết học cổ điển Đức, chúng ta không thể không
nghiên cứu sự đối lập giữa triết học duy tâm Hêghen và triết học duy vật
Phoiơbách…
Thứ tư, dù có sự khác nhau, sự thay thế giữa
các trường phái triết học thì giữa chúng đều có sự kế thừa lẫn nhau như là điều
kiện tiền đề khách quan đối với sự hình thành và phát triển của lịch sử tư
tưởng triết học. Chẳng hạn, sự ra đời và phát triển của triết học Mác đã bao
hàm sự kế thừa mang tính phê phán đối với toàn bộ lịch sử của tư tưởng triết
học trước đó, nhưng trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức thế kỷ XIII – XIX.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu các trường phái triết học, phân biệt sự khác nhau
những tư tưởng triết học duy vật và duy tâm trong một trường phái duy vật và
duy tâm cũng chỉ mang tính chất tương đối. Bởi vì, trong một trường phái triết
học duy vật, duy tâm không hẳn hoàn toàn là tư tưởng duy vật, duy tâm mà trong
mỗi một trường phái đó ít nhiều có những tư tưởng của các trường phái triết học
khác... Chỉ có điều, đó là kế thừa, sự phát triển những tư tưởng triết học phù
hợp với sự ra đời và phát triển của mỗi một trường phái triết học. Chẳng thế,
sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX, là giai đoạn của
sự chuyển tiếp từ giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật của C.Mác và
Ph.Ăngghen...
Sự phát
triển của triết học không chỉ là sự tác động qua lại giữa các trường phái triết
học, mà còn thể hiện sự tác động giữa triết học với các hình thái ý thức xã hội
khác như chính trị, pháp quyền, đạo đức, khoa học, tôn giáo và thẩm mỹ. Sự tác
động qua lại lẫn nhau đó làm cho các hình thức phát triển của triết học rất đa
dạng. Triết học không chỉ là cơ sở lý luận cho các hình thái ý thức xã hội
khác. Điều đó cho thấy, nhiều khi nghiên cứu các tư tưởng triết học phải thông
qua nghiên cứu, khái quát từ các hình thái ý thức xã hội khác.
2. Sự phân chia các thời kỳ của lịch sử triết học
Sự phân
chia các thời kỳ của lịch sử triết học, một mặt căn cứ vào các phương thức sản
xuất khác nhau trong lịch sử xã hội; mặt khác còn được qui định bởi bước ngoặt
cách mạng của các học thuyết triết học có tính thời đại (triết học lớn), nhưng
đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội nhất định.
Sự phân
chia các thời kỳ khác nhau của lịch sử triết học về cơ bản đều thông qua cuộc
đấu tranh giữa triết học duy vật và triết học duy tâm gắn liền với các giai
đoạn khác nhau của sự phát triển của khoa học;
Có thể
khái quát lịch sử hình thành và phát triển của triết học bao gồm các thời kỳ:
1.
Triết học cổ đại;
2.
Triết học trung đại;
3.
Triết học phục hưng và cận đại;
4.
Triết học cổ điển Đức;
5.
Triết học Mác – Lênin;
6.
Triết học phương Tây hiện đại.
III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI
1. Vai trò thế giới quan của triết học
Nhận thức về thế
giới, về bản thân trong mối quan hệ với thế giới để điểu chỉnh hoạt động của
mình là một nhu cầu nhận thức của con người. Đó cũng quá trình hình thành thế
giới quan.
Thế giới quan là
hệ thống những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về cuộc sống và
vai trò của con người đối với thế giới.
Sự hình thành và phát triển thế giới quan đều thông qua hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn xã hội.
Nội dung của thế
giới quan phản ánh thế giới và vai trò của con người ở ba phương diện:
- Khách thể (các đối tượng bên ngoài chủ thể - đối
tượng nhận thức);
- Chủ thể (con người dưới các hình thức là cá
nhân hoặc cộng đồng xã hội – chủ thể nhận thức);
- Mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể.
Nội dung của thế
giới quan, một mặt phản ánh hệ thống những quan điểm, quan niệm của con người
về thế giới; mặt khác cũng phản ánh vai trò của con người đối với thế giới. Nội
dung cơ bản của thế giới quan cũng là việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức.
Xét về cấu trúc,
thế giới quan bao gồm nhiều yếu tố: tình
cảm, niềm tin, lý tưởng, tư tưởng, tri thức.
Trong đó có hai yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin. Tri
thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, khi nó là niềm tin để hình
thành lý tưởng, động cơ thôi thúc con người hành động.
Sự hình thành và
phát triển của thế giới quan về cơ bản có ba hình thức: thế giới quan huyền
thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Như vậy, một thế giới quan khoa học là thế giới quan có sự thống nhất
giữa tri thức và niềm tin có ý nghĩa định hướng cho hoạt động của con người khi
phản ánh thế giới, khi xác định thái độ, cách thức hoạt động và hình thành nhân
sinh quan nói chung của con người.
Thế giới quan có các chức năng: chức năng nhận thức, đánh giá, xác định
giá trị, điều chỉnh hành vi của con người. Khái quát lại, chức năng quan trọng
nhất của thế giới quan là ý nghĩa định hướng cho hoạt động nói chung của con
người.
Triết học là hạt
nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá
trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các
khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học. Chủ nghĩa duy
vật, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan triết học đối lập
nhau.
2. Vai trò phương pháp luận của triết học
Mỗi quan điểm lý
luận của triết học đồng thời là những nguyên tắc trong việc xác định phương
pháp và lý luận về phương pháp. Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn
đến sự ra đời một lĩnh vực đặc thù của tri thức triết học và khoa học lý thuyết
- đó là phương pháp luận.
Triết học thực
hiện chức năng phương pháp luận chung của toàn bộ nhận thức khoa học, trong đó
bản thân thế giới quan cũng mang một ý nghĩa về mặt phương pháp luận. Trong
lịch sử triết học có hai phương pháp đối lập nhau, - đó là phương pháp biện
chứng và phương pháp siêu hình.
Phương pháp
hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống các nguyên tắc được sử dụng nhất quán
trong hoạt động nói chung của con người. Phương pháp bao gồm có phương pháp
nhận thức và phương pháp thực tiễn. Phương pháp của triết học là phương pháp
nhận thức chung nhất về thế giới. Trong lịch sử phát triển của triết học, đã
tồn tại hai phương pháp nhận thức đối lập nhau: đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Phương pháp biện
chứng
là phương pháp nhận thức thế giới với quan điểm cơ bản cho rằng, sự tồn tại của
mọi sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan nói chung đều ở trong những
mối liên hệ, trong sự vận động và phát triển theo những qui luật khách quan vốn
có của nó.
Phương pháp siêu
hình
là phương pháp nhận thức thế giới với quan điểm cơ bản cho rằng, mọi sự vật và
hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại cô lập lẫn nhau, cái này ở bên
cạnh cái kia và nó luôn ở trong trạng thái tĩnh không có sự vận động và phát
triển. Nhưng nếu như trong phương pháp siêu hình, họ có thừa nhận sự phát triển
thì chẳng qua chỉ là một quá trình tăng hoặc giảm về số lượng. Mặt khác, quan
điểm này không thừa nhận mâu thuẫn bên trong bản thân các sự vật và hiện tượng.
Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong lịch sử
triết học chủ yếu về mặt nguyên tắc và phương pháp nhận thức thế giới khách
quan.
Trong việc
nghiên cứu của khoa học tự nhiên, thì vấn đề phân chia thế giới hiện thực thành
các thuộc tính, bộ phận, hệ thống tĩnh tại và tách rời nhau đều là những điều
kiện cần thiết cho nhận thức khoa học. Nhưng sẽ không đúng, nếu từ đó rút ra
kết luận cho rằng phép siêu hình là thế giới quan, phương pháp luận khoa học.
Cần phải phân biệt một bên là phương pháp trừu tượng hoá tạm thời cô lập sự vật
và hiện tượng khỏi mối liên hệ chung, tách khỏi sự vận động và phát triển để
nghiên cứu chúng trong khoa học cụ thể với một bên là phép siêu hình với tư
cách là thế giới quan của triết học.
3. Vai trò của triết học đối với khoa học cụ thể và
đối với tư duy lý luận
Là một hình thái
của ý thức xã hội, triết học và các hình thái của ý thức xã hội khác đều có sự
liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo thành dòng chảy lịch sử tư tưởng nói
chung của nhân loại. Sự hình thành, phát triển của triết học không thể tách rời
sự phát triển của khoa học cụ thể, thể hiện sự khái quát những thành tựu của
khoa học cụ thể qua các thời kỳ khác nhau của xã hội. Đến lượt nó, triết học
lại có vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể. Đó là vai trò
thế giới quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận trong
việc đánh giá thành tựu đã đạt được, cũng như chỉ ra phương hướng, phương pháp
cho quá trình nghiên cứu của khoa học cụ thể. Về vấn đề này, A.Anhxtanh đã nhận
xét: “Các khái quát của triết học cần phải dựa trên kết quả khoa học. Tuy
nhiên, mỗi khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường ảnh hưởng
đến sự phát triển của tư tưởng khoa học khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều
phương hướng phát triển có thể có”[17].
Cũng vì thế, mà nhà tư tưởng lớn nhất của triết học cổ điển Đức là Hêghen cũng
đã viết: Tôi biết nhiều khoa học tuyệt vời, nhưng tôi không
biết khoa học nào tuyệt vời hơn
triết học. Dù có cố gắng suy luận mà không quan tâm đến triết học, các khoa học khác thiếu nó thì vẫn không
thể có sự sống, tinh thần, chân lý.
Vai trò của triết học đối với các khoa học cụ
thể đều thể hiện thông qua vai trò nhất định nào đó của các trường phái triết
học, chứ không thể đồng nhất với một trường phái triết học và càng không thể
tuyệt đối hoá một thời kỳ nào đó của lịch sử triết học. Tuy nhiên, mỗi một
trường phái triết học đề có vai trò khác nhau đối với các khoa học cụ thể. Khi
nghiên cứu tính quy luật về sự hình hành, phát triển của lịch sử tư tưởng triết
học, chúng ta có thể căn cứ vào cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và triết
học duy tâm để xem xét các trường phái triết học khác. Sự tiếp cận đó là có cơ
sở khoa học, nhưng sẽ thiếu sót, dẫn đến tư tưởng cực đoan, phiến diện nếu
chúng ta lại cho rằng tất cả những gì thuộc về chủ nghĩa duy vật sẽ là khoa học
và tất cả những gì của chủ nghĩa duy tâm đều là phản khoa học. Một thực tế
thường thấy, khi mọi người thường đặt ra câu hỏi: ai sẽ thắng trong cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm? Chỉ có thể trả lời câu hỏi
này, khi chúng ta nghiên cứu vai trò của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
đối với khoa học cụ thể ở cả hai phương diện thế giới quan và phương pháp luận
của nó. Hơn nữa, khi đánh giá vai trò của mỗi một trường phái còn xem xét
khuynh hướng phát triển của mỗi một trường phái gắn liền với điều kiện lịch sử
xã hội nhất định.
Với sự phân tích
và phương pháp tiếp cận như đã nêu, chúng ta thấy rằng trong lịch sử triết học,
về cơ bản thì chủ nghĩa duy vật đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển của
khoa học; ngược lại chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng làm công cụ biện hộ cho
tôn giáo và cản trở sự phát triển của khoa học.
Ở thời kỳ cổ
đại, triết học tự nhiên (một hình hức cơ bản của chủ nghĩa duy vật) đã khái
quát những thành tựu của khoa học tự nhiên đã trình bày một bức tranh tổng quát
về thế giới và dự báo thiên tài định hướng cho khoa học phát triển. Đến thời
trung cổ ở phương Tây, triết học kinh viện (thần học) là công cụ biện hộ cho
tôn giáo, cản trở sự phát triển của khoa học. Thời kỳ phục hưng và cận đại, chủ
nghĩa duy vật đã phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học tự nhiên,
chống lại chủ nghĩa kinh viện và thống trị của giáo hội. Tuy nhiên, vào thời kỳ
này, quan điểm “Triết học là khoa học của các khoa học” và phương pháp tư duy
siêu hình vẫn giữ vai trò thống trị. Sự phát triển của khoa học cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX đã làm cho quan điểm: “Triết học là khoa học của các khoa học”
và phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp nữa.
Vì vậy, sự ra
đời của triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với việc phê phán tư duy siêu hình. Trong các trường phái
triết học của triết học cổ điển Đức, triết học duy tâm của Hêghen, theo nhận
xét của Ph.Ăngghen “không chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là nhà bác học
có tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực, ông xuất hiện ra là một người
vạch thời đại”[18]. Theo
nghĩa đó, triết học duy tâm Hêghen, nhất là phép biện chứng của Hêghen không
chỉ có ý nghĩa đối với triết học cổ điển Đức nói chung, đối với sự ra đời của
triết học Mác nói riêng, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến các khoa học cụ thể khác
như đạo đức, pháp quyền, lôgíc, mỹ học…mặc dù, trong hệ thống triết học của ông
còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn bởi thế giới quan duy tâm.
Triết học phương
Tây hiện đại muốn từ bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng
nghiên cứu riêng. Đó là khuynh hướng
tiếp tục ý đồ vượt lên trên sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm; xa rời phép biện chứng; phá vỡ sự thống nhất giữa bản thể luận, nhận thức
và lôgíc học… Nhưng triết học phương tây hiện đại đã đặt ra những vấn đề cấp
bách về mối quan hệ giữa triết học và khoa học và tính chất chuyên ngành trong
triết học; nhưng nhìn chung, họ chưa giải quyết một cách triệt để của một số
vấn đề cấp bách đó.
Sự ra đời của
chủ nghĩa duy vật biện chứng (triết học của C.Mác và sự phát triển của
V.I.Lênin) cũng là sự khái quát những thành tựu của khoa học, nhất là khoa học
hiện đại; đồng thời, nó lại đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa
học hiện đại với tính cách là thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp
luận khoa học cho các khoa học cụ thể.
Cố nhiên, triết
học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới
quan và phương pháp luận, như vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về
bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả năng nhận thức của
con người ở các phương diện khác nhau. Song, sự hình hành và phát triển của
triết học đều trên cơ sở khái quát những thành tựu của khoa học cụ thể và có ý
nghĩa định hướng cho sự phát triển của khoa học cụ thể. Triết học không chỉ có
vai trò to lớn đối với các khoa học cụ thể, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối
với rèn luyện năng lực tư duy lý luận của con người. Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “một
dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”[19]
và hoàn thiện năng lực tư duy lý luận, không có một cách nào khác là nghiên cứu
toàn bộ triết học thời trước
[1]Kant Em manuel (1724 – 1804), nhà triết học theo chủ nghĩa hoài nghi luận
và chủ nghĩa duy tâm chủ quan, người sáng lập ra triết học cổ điển Đức thế
kỷ XIII – XIX.
[2] Hégel Georg Wihelm Friedrich
(1770 – 1831), nhà bách khoa toàn thư và
triết học duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII – XIX.
[3] Bacon Francis (1561 – 1626), người
sáng lập chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm hiện đại.
[4] Hobbes Thomas (1588 – 1679), nhà
triết học duy vật Anh.
[5] Didrot Deni (1713 – 17840, nhà
triết học duy vật Pháp.
[6] Spinoza Baruch (1632 -1677), nhà triết học duy vật Hà
Lan.
[7] Triết học phương Tây hiện đại
như triết học hiện sinh, thực dụng…
[8] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn
tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr. 403.
[9] Berkley George (1684 – 1753), nhà triết học
duy tâm chủ quan, linh mục người Anh.
[10] Rene Descartes (1596-1650) nhà
triết học, bách khoa toàn thư vĩ đại người Pháp. Đêcáctơ là nhà triết học duy vật,
nhưng ông lại giải thích sự tồn tại của giới tự nhiên theo những quy luật cơ học.
[11]Platon (427 – 3470 TCN), nhà
triết học duy tâm khách quan Hy lạp cổ đại.
[12] Héraclite d’Ephèse (khoảng 540 –
480 TCN), nhà triết học duy vật cổ Hy Lạp.
[13] La
Mettrie Julien Offroy de (1709 – 1751), nhà triết học duy vật Pháp.
[14]
Didrot Deni (1713 – 1784), nhà triết học duy vật Pháp.
[15] Holbach
Paul Henri (1723 – 1789), nhà triết học duy vật chủ nghĩa Pháp.
[16] Ph. Ăngghen: Chống Duyrinh, Nxb, Sự thật, Hà
Nội, 1971, tr. 544.
[17]
A.Anhxtanh và Innphendo: Sự phát triển
của vật lý học, Mátxcơva, 1965, tr. 48 (tiếng Nga).
[18]
C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1981, t. 6, tr. 367.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét