Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

Khái luận chung về triết học


I. TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái niệm triết học
Triết học xuất hiện khoảng thế kỷ thứ VIII - VI trước công nguyên ở thời kỳ cổ đại gắn liền với sự hình thành và phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ với tính cách là một khoa học, một hình thái của ý thức xã hội. Nhưng nếu xem xét triết học trong quá trình hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng xã hội thì những tư tưởng triết học xuất hiện rất sớm được thể hiện ở những tư tưởng đạo đức, tôn giáo và thẩm mỹ trong xã hội nguyên thủy. Đặc biệt, trong lịch sử tư tưởng phương Đông. Đó là những tư tưởng triết học trong “Kinh dịch”“Vêda” của thời thượng cổ của Trung Hoa và Ấn Độ.
Kinh dịch, được xây dựng trên quan niệm âm – dương. Chúng ta không biết chính xác nó xuất hiện vào thời gian nào, nhưng theo các nhà nghiên cứu thì kinh dịch xuất hiện trễ lắm là vào thời kỳ nhà Ân (thế kỷ XVII trước công nguyên) vì nó phải xuất hiện trước khi người Trung Hoa sử dụng biểu tượng về thái cực và bát quát trong thời kỳ Ân – Thương và Tây Chu. Tư tưởng triết học về âm – dương, thể hiện ở thái cực trong kinh dịch, có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên. Nhưng có sự kết hợp không tự giác giữa những tư tưởng duy vật, duy tâm và tôn giáo khi giải thích về nguồn gốc của vũ trụ và vai trò của con người dưới các hình thức khác nhau.
Vêda là bộ kinh cổ xưa nhất của Ấn Độ ra đời vào cuối thiên niên kỷ thứ II và đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Những tư tưởng triết học trong kinh Vêda đều bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại và tôn giáo đa thần, để lý giải về vũ trụ và con người.
Như vậy, việc khẳng định triết học ra đời khoảng thế kỷ thứ VIII – thế kỷ VI trước công nguyên với tính cách là một khoa học, còn những tư tưởng triết học được thể hiện trong “Kinh dịch” hoặc ở thánh kinh “Vêda” theo nghĩa là những quan niệm triết học cổ xưa, có tính chất triết học hơn là những học thuyết triết học theo đúng nghĩa. Tuy vậy, những quan niệm triết học đó cũng là cơ sở để hình thành và phát triển trong hệ thống lý luận của các trường phái triết Trung Hoa và Ấn Độ cổ đại về sau.
Thuật ngữ triết học đã xuất hiện trong thời kỳ cổ đại dưới nhiều ngôn ngữ. Triết học theo chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng, bao hàm sự hiểu biết sâu rộng của con người về hiện thực và vấn đề đạo lý của con người. Theo người Ấn Độ, triết học là Darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến lẽ phải. Theo chữ Hy Lạp triết học là “yêu mến sự thông thái” hoặc “làm bạn với trí tuệ”, xuất phát từ một thành ngữ la tinh là philosophia.
Như vậy, nội dung thuật ngữ triết học theo quan điểm của các nhà triết học cổ đại, bao hàm hai yếu tố: đó là yếu tố nhận thức (sự hiểu biết của con người, sự giải thích hiện thực bằng hệ thống tư duy lôgíc) và yếu tố nhận định (đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động) về mặt xã hội. Dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học biểu hiện khả năng nhận thức và đánh giá của con người về hiện thực, nó tồn tại với tính cách là một hình thái ý thức xã hội.
Ở các thời đại về sau, các nhà triết học có khuynh hướng lý giải đối tượng và vai trò của triết học trong các lĩnh vực tinh thần của xã hội, hơn là giải thích về thuật ngữ triết học là gì. Đó là vấn đề xác định ngày một mở rộng hơn đối tượng nghiên cứu của triết học và mối quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể. Chẳng hạn, theo I.Can tơ[1]: “Có thể quy triết học theo nghĩa rộng về các vấn đề sau đây:
1). Tôi có thể biết gì?
2). Tôi cần phải làm gì?
3). Tôi có thể hy vọng vào cái gì?
4). Con người là gì?
Ở một phương diện khác, Hêghen[2] lại cho rằng: “Triết học là sự tổng kết lịch sử tư duy” và ông còn nhấn mạnh rằng: "Tôi biết nhiều khoa học tuyệt vời, nhưng tôi không biết khoa học nào tuyệt vời hơn triết học". "Dù có cố gắng suy luận mà không quan tâm đến triết học, các khoa học khác thiếu nó thì vẫn không thể có sự sống, tinh thần, chân lý"…
Trải qua quá trình hình thành và phát triển của triết học, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về triết học. Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có những quan điểm chung. Đó là, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, nghiên cứu thế giới trong tính chỉnh thể thống nhất, tìm ra các qui luật phổ biến của nó trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí và vai trò của con người đối với thế giới.
Hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới là các hệ thống lý luận của triết học với tính cách là một khoa học và nó khác với hệ thống lý luận của các khoa học cụ thể ở tính chất chung và phổ biến nhất của nó về hiện thực.
Sự ra đời của triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận thức, khẳng định triết học chỉ xuất hiện khi mà trình độ nhận thức của con người có khả năng khái quát và trừu tượng hóa những cái riêng lẻ, cụ thể để nắm bắt được cái chung, cái bản chất và qui luật của hiện thực, với tính cách là tư duy lý luận. Bởi, đối tượng triết học là thế giới vật chất và con người được nó nghiên cứu dưới dạng các qui luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguồn gốc xã hội, khẳng định triết học chỉ xuất hiện khi lao động xã hội phân chia thành lao động trí óc và lao động chân tay gắn liền với sự ra đời và phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ và sự phân chia xã hội thành giai cấp. Cho nên, triết học mang tính giai cấp. Bởi, nó phản ánh và bảo vệ lợi ích cho những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định với tính cách là nội dung cơ bản trong hệ tư tưởng của các giai cấp khác nhau…
2. Đối tượng nghiên cứu của triết học
Đối tượng của triết học là thế giới vật chất và con người được triết học nghiên cứu dưới dạng các qui luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của triết học cũng thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử.
Thời cổ đại, khi mới xuất hiện phân chia lao động trí óc và lao động chân tay, chưa có sự phân chia giữa triết học với các khoa học cụ thể, nên đối tượng nghiên cứu của triết học và khoa học cụ thể về cơ bản thống nhất với nhau. Triết học cổ đại Trung Hoa gắn liền với vấn đề chính trị - xã hội, triết học cổ đại Ấn Độ gắn liền với tôn giáo; còn triết học cổ đại Hy Lạp gắn liền với khoa học tự nhiên và gọi là triết học tự nhiên. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này coi triết học là khoa học của các khoa học. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này đã đạt được nhiều thành tựu và những tư tưởng của nó ảnh hưởng to lớn đối với sự lịch sử phát triển của triết học cũng như các khoa học cụ thể ở các thời đại về sau.
Thời trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội dẫn đến triết học tự nhiên bị thay thế bởi triết học kinh viện, phụ thuộc vào thần học; triết học chỉ còn nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho Kinh thánh của đạo Thiên chúa giáo.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ở thế kỷ XV, XVI đã tạo ra cơ sở vững chắc cho sự phục hưng triết học và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, các khoa học chuyên ngành, nhất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập so với triết học. Chủ nghĩa duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đã đạt tới đỉnh cao ở thế kỷ XVII – XVIII như chủ nghĩa duy vật của Ph.Bêcơn[3], T.Hốpxơ[4], Điđrô[5], Xpinôza[6]… trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát triển trong chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen trong triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII - XIX.
Điều kiện kinh tế – xã hội và sự phát triển của khoa học đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác, đoạn tuyệt với quan niệm triết học là “khoa học của các khoa học”. Triết học Mác xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu các qui luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học phương Tây hiện đại[7] muốn từ bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình. Đó là những khuynh hướng tiếp tục ý đồ vượt lên trên sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; xa rời phép biện chứng; phá vỡ sự thống nhất giữa bản thể luận, nhận thức và lôgíc học… Ở một phương diện khác, triết học phương Tây hiện đại cũng đã đặt ra những vấn đề cấp bách về mối quan hệ giữa triết học và khoa học và tính chất chuyên ngành trong triết học; nhưng nhìn chung, họ chưa giải quyết một cách triệt để của một số vấn đề cấp bách đó.
 Cố nhiên, triết học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận, như vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả năng nhận thức của con người ở các phương diện khác nhau.
3. Vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm “Lút vích Phoiơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ph.Ăngghen đã viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, nhất là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại; giữa ý thức và vật chất, giữa tinh thần và giới tự nhiên”[8].
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất nhằm xác định ngôi thứ, tính quyết định hay phụ thuộc trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để trả lời câu hỏi, giữa ý thức hay vật chất cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai nghiên cứu khả năng nhận thức của con người về hiện thực khách quan để trả lời câu hỏi, con người có hay không có khả năng nhận thức được hiện thực hay không?
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học:
- Vật chất và ý thức là hai phạm trù rộng lớn nhất của triết học và đồng thời nó cũng là nội dung cơ bản được xác định trong đối tượng nghiên cứu của triết học. Đối tượng nghiên cứu của triết học là thế giới vật chất và con người. Triết học nghiên cứu các qui luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Xét cho cùng là nghiên cứu bản chất của mọi sự tồn tại, đó là vật chất và ý thức.
- Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là một tiêu chuẩn khách quan để phân biệt sự giống nhau, khác nhau giữa các trường phái triết học. Ví dụ: Trường phái triết học nào thừa nhận vật chất có trước, quyết định ý thức, ý thức là cái có sau phụ thuộc vào vật chất, - đó là triết học duy vật. Đối lập với quan niệm này triết học duy tâm.
- Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận chung về thế giới quan và phương pháp luận của triết học. Nhất là nghiên cứu mối quan hệ giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội.
4. Các trường phái triết học
a. Chủ nghĩa duy tâm (Idéalisme)
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái nhất nguyên luận và có hai hình thức: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan (Idealime subjectif) là trường phái triết học, về nguyên tắc thừa nhận tính thứ nhất của ý thức đối với vật chất. Song ý thức không đơn thuần là năng lực phản ánh của bộ não con người về hiện thực, mà là cái có sẵn trong bộ não con người, là cái quyết định thế giới vật chất và kể cả hoạt động tinh thần của con người. Ví dụ: theo quan điểm của Béccơli[9]: “Tồn tại - có nghĩa là được nhận thức” hoặc quan điểm của Đềcáctơ[10]: “Tôi tư duy vậy tôi tồn tại”.
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan (Idealime “objectif”) là trường phái triết học về nguyên tắc, cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức đối với vật chất, nhưng đó là ý thức khách quan, có trước, quyết định đối với hiện thực và con người. Ý thức khách quan thường được các nhà triết học duy tâm gọi bằng các tên như Platôn[11] là “ý niệm”, Hêghen: “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần thế giới”... theo nghĩa đó, ý thức khách quan là một thực thể thuần túy trừu tượng như linh hồn, hoặc là các lực lượng siêu nhiên.
Trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy tâm đều thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định vật chất còn vật chất là tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào ý thức. Giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy tâm không phủ nhận khả năng nhận thức của con người nhưng họ coi khả năng nhận thức của con người phụ thuộc vào chính bản thân ý thức (cảm giác chủ quan thuần túy) hoặc do sự quyết định của các lực lượng siêu nhiên (ý niệm - ý niệm tuyệt đối).
Như vậy, chủ nghĩa duy tâm là quan điểm nhất nguyên luận. Bởi, mỗi một trường phái đều xuất phát từ quan điểm duy nhất là thừa nhận ý thức là cái có trước, cái quyết định vật chất, làm nguyên lý xuất phát với tính cách là cơ sở lý luận chung cho hệ thống lý luận triết học của mình.
b. Chủ nghiã duy vật (Matérialisme)
 Chủ nghĩa duy vật là trường phái nhất nguyên luận và có ba hình thức cơ bản:
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại (Matérialisem vulgaire - duy vật tự phát, chất phác).
Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ, xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ, Trung Hoa, Hylạp. Bởi vì, xét về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống lại những tư tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng về mặt phương pháp luận thì chưa có cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa học của bản thân tri thức triết học. Quan niệm về thế giới là vũ trụ, là vạn vật… vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính của vật thể cụ thể…còn ý thức là linh hồn, là cảm giác…
Khi đánh giá về những mặt tích cực trong phép biện chứng duy vật cổ đại, Ph.Ănghen đã viết: Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời cổ, và nguời đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Hêracơlít[12]: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi (chuyển hoá thành cái khác).
Như vậy, chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết hoc duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất và đã đồng nhất vật chất với một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại về cơ bản là đúng. Vì khi nghiên cứu giới tự nhiên họ đều trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố của bản thân giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, mà không viện đến thần linh hay Thượng đế.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình (Materialisem taphysique).
Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh hướng phát triển của triết học duy vật từ thời kỳ phục hưng đến thời cận đại. Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao ở thế kỷ XVII – XVIII. Đây là thời kỳ cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sực tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc – phương pháp nhìn nhận thế giới như một tổng thể các sự vật, hiện tượng tạo nên trong trạng thái biệt lâp, tĩnh tại.
Trước đây, tri thức của các lĩnh vực khoa học còn là một bộ phận trực tiếp của triết học. Đến thời kỳ này nảy sinh nhu cầu các ngành hoa học cụ thể tách ra khỏi triết học trở thành các ngành khoa học cụ thể, độc lập; dùng phương pháp nghiên cứu thật chi tiết nhằm phát hiện các thuộc tính, những qui luật của vật chất như tính năng, tác dụng, độ bền vật liệu… Từ đó làm xuất hiện phương pháp mới trong khoa học tự nhiên – phương pháp thực nghiệm và cũng trên cơ sở đó, xuất hiện sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình. Phương pháp này xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, không vận động, không biến đổi, không phát triển, đó là hệ quả của điều kiện lịch sử phát triển của khoa học ở thế kỷ XVII – XVIII.
Triết học duy vật thời kỳ phục hưng và cận đại, đại diện cho những tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ, họ đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, nhà thờ trung cổ. Trong số các đại biểu cơ bản của triết học duy vật thời kỳ này là triết học duy vật Khai sáng Pháp với những quan điểm tiến bộ của La Mêri[13], Đidrô[14], Hônbách[15] chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
-  Chủ nghĩa duy vật Biện chứng (Materialisme dialectique)
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác – Ph.Ănghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp nhận thức khoa học.
Tóm lại, chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học nhất nguyên luận tuy tồn tại dưới các hình thức khác nhau, nhưng đều giống nhau khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy vật đều thừa nhận vật chất là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định đối với ý thức còn ý thức là tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào vật chất. Giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học thì chủ nghĩa duy vật khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới.
c. Một số các trường phái triết học khác
- Triết học nhị nguyên luận (do chữ la tinh dualis có nghĩa là hai). Khuynh hướng triết học thừa nhận ngược lại với thuyết nhất nguyên luận (duy vật và duy tâm), rằng nguyên lý của sự tồn tại không phải là một mà là hai thực thể khác nhau, một thực thể vật chất và một thực thể tinh thần, hai thực thể ấy phủ định và đấu tranh với nhau. Nhị nguyên luận là khuynh hướng triết học điều hoà giữa triết học duy vật và triết học duy tâm. Ví dụ: Theo quan điểm của Đềcáctơ coi cơ sở của mọi sự tồn tại được cấu tạo bằng hai thực thể vật chất và tinh thần, hoặc theo quan điểm của triết học Phật giáo: “thế giới vật chất và con người vừa tồn tại và không tồn tại”, “thế giới vật chất được cấu tạo bởi danh (tinh thần) và sắc (vật chất)…
- Triết học hoài nghi luận – Thuyết không thể biết (do chữ Hy Lạp skeplikos; skep – tomai có nghĩa là: tôi thẩm tra). Khuynh hướng triết học biểu thị sự hoài nghi cho rằng không thể đạt được chân lý khách quan. Những nhà triết học nhị nguyên luận đề cao sự hoài nghi lên thành nguyên tắc; họ nói rằng: đối với mỗi sự vật có thể có hai ý kiến trái ngược nhau, tức là khẳng định hoặc phủ định; do đó tri thức của con người về các sự vật là không thể tin được. Vì vậy, họ đi đến khẳng định: khoa học là một hệ thống tri thức mở và điều quan trọng nhất của khoa học là phương pháp tiếp cận, là hoài nghi khoa học...
Hoài nghi luận là một khuynh hướng triết học cho rằng con người không thể hiểu biết được thế giới hay ít ra là không thể nhận thức được bản chất của thế giới. Những đại biểu nổi tiếng của khuynh hướng triết học này là Hium (nhà triết học Anh thời cận đại) và Cantơ (nhà triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII – XIX). Theo Hium, chẳng những chúng ta không thể biết được sự vật như thế nào, mà cũng thể biết được sự vật đó có tồn tại hay không. Còn Cantơ thì thừa nhận có một thế giới sự vật tồn tại, ông gọi là “vật tự nó”; nhưng chúng ta không thể nhận thức được bản chất thế giới ấy mà chỉ nhận thức được những hiện tượng của nó. Quan niệm này của Cantơ một mặt không phủ nhận khả năng nhận thức của con người về hiện thực, nhưng khả năng có mang tính tương đối, hữu hạn; mặt khác lại phù nhận khả năng nhận nhận thức có tính vô hạn, tuyệt đối của con người về hiện thực. Nhưng nếu từ đó phủ nhận khả năng nhận thức của con người về hiện thực thì rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
- Triết học tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái của ý thức xã hội, phản ánh thế giới hiện thực một các hoang đường, hư ảo và thần thánh hóa. Tôn giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó gắn liền với đạo đức và nghệ thuật, thần thọai và các truyền thuyết... Ph.Ăngghen đã nêu ra một định nghĩa kinh điển về tôn giáo: “Bất cứ tôn giáo nào cũng đều là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc người ta sức mạnh ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức mạnh ở trần gian đã mang hình thức sức mạnh siêu trần gian”[16].
 Triết học tôn giáo là khuynh hướng triết học có tính đặc thù so với các trường phái triết học khác như chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, nhị nguyên luận…Bởi vì, sự hình thành và phát triển của trường phát triết học này thường gắn liền với sự hình hành và phát triển của các tôn giáo cụ thể khác nhau trong lịch sử triết học, nhưng không đồng nhất với hệ thống giáo lý của các tôn giáo cụ thể đó. Song nó lại là thế giới quan và phương pháp luận cho hệ thống giáo lý của các tôn giáo cụ thể đó. Bởi vì, chúng ta không thể nghiên cứu triết học tôn giáo ví như nghiên cứu triết học Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo đến triết học Kinh viện (thần học trong thời kỳ trung cổ ở phương Tây) hay chủ nghĩa Tômát mới (trong triết học tư sản hiện đại) mà không nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các tôn giáo đó.
Đặc điểm cơ bản của triết học tôn giáo là nghiên cứu về vấn đề tâm linh, đời sống tâm lý của con người gắn liền với tư tưởng của các tôn giáo nhất định. Chính vì vậy, vấn đề tâm lý tôn giáo và tư tưởng tôn giáo như tình cảm, niềm tin, tập quán và biểu tượng tín ngưỡng tôn giáo cho đến những quan điểm tôn giáo phát triển thành những giáo lý tôn giáo trở thành thế giới quan tôn giáo được thể hiện theo quan điểm của những giai cấp khác nhau (trong xã hội có giai cấp) cũng là sự vận dụng những tư tưởng triết học tôn giáo của các giai cấp khác nhau trong lịch sử.
Những biểu tượng triết học tôn giáo là một “ý niệm” gắn liền trước hết với lĩnh vực đạo đức với ý nghĩa cuộc sống của con người. Theo ý thức tôn giáo, bất kể mọi sự không hoàn thiện của cuộc sống trần gian, thì Thượng đế, Đức Chúa trời… bảo đảm cho sự tất thắng, là sự trong sáng trong sự tương phản muôn đời giữa thiện và ác, công bằng và bất công, đạo đức và sự ngang trái... Người tin vào Thượng đế. Đức Chúa trời… sẽ sống một cách “thánh thiện” hơn... Nhưng niềm tin của bất kỳ tôn giáo nào cũng là sự phản ánh hoang đường về hiện thực và về cơ bản là đối lập với khoa học. Cho nên, chúng ta phải thấy được những mặt hạn chế của tôn giáo, nhưng đồng thời cũng không thể phủ nhận vai trò của tôn giáo đối với quá trình hình thành, phát triển phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá của các nền văn hoá khác nhau. Nhất là vấn đề tính ngưỡng dân gian, tín ngưỡng tôn giáo trong đời sống tinh thần, đời sống tâm linh của nhân dân.
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Nâng cao trình độ nhận thức khoa học tuyên truyền giáo dục tư tưởng vô thần khoa học cho mọi người. Chống lại sự lạm dụng tôn giáo của các thế lực phản động, đoàn kết các tôn giáo vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước ta là một quá trình phức tạp trên cơ sở bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống xây dựng một nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa.
II. TÍNH QUI LUẬT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC.
1. Đặc điểm chung của sự hình thành lịch sử tư tưởng triết học
Thứ nhất, lịch sử hình thành và phát triển của triết học đều phụ thuộc vào lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất vật chất nhất định. Bởi vì lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử hình thành và phát triển của các phương thức sản xuất vật chất khác nhau. Đó là từ phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ đến phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ làm xuất hiện triết học cổ đại, còn phương thức sản xuất phong kiến ở Tây Âu dẫn đến sự ra đời triết học thời kỳ trung cổ...
Là một hình thái của ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng nên sự hình thành và phát triển của triết học đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Theo nghĩa đó, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển các tư tưởng triết học không thể tách rời những điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện giai cấp và đấu tranh giai cấp đã làm xuất hiện các tư tưởng triết học khác nhau.
Thứ hai, sự phát triển của khoa học ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung, hình thức và ý nghĩa của các học thuyết triết học. Bởi vì, sự hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng triết học, một mặt khái quát những thành tựu của khoa học; mặt khác nó phải đáp ứng những yêu cầu phát triển của khoa học trong từng giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy, đối tượng nghiên cứu của triết học cũng thay đổi và phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội nhất định mà còn chịu sự tác động bởi sự phát triển của khoa học dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn, triết học cổ đại Hy Lạp gắn liền với khoa học tự nhiên và gọi là triết học tự nhiên. Hoặc chủ nghĩa duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đã đạt tới đỉnh cao ở thế kỷ XVII – XVIII làm xuất hiện triết học duy vật siêu hình.
Thứ ba, lịch sử hình thành và phát triển của triết học, dù thể hiện dưới cách hình thức và điều kiện lịch khác nhau thì nó đều thông cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và duy tâm. Sự đối lập giữa các trường phái triết học, nhất là duy vật và duy tâm vừa có tính mâu thuẫn, nhưng lại bao hàm sự thống nhất trong nội tại lịch sử tưởng của triết học. Chẳng hạn, khi chúng ta nghiên cứu triết học Hy Lạp thì không thể không nghiên cứu sự đối lập giữa các trường phái triết học duy vật và triết học duy tâm. Đặc biệt, là sự đối lập giữa triết học duy tâm Platôn và triết học duy vật của Đêmôcơrít. Hoặc khi nghiên cứu triết học cổ điển Đức, chúng ta không thể không nghiên cứu sự đối lập giữa triết học duy tâm Hêghen và triết học duy vật Phoiơbách…
Thứ tư, dù có sự khác nhau, sự thay thế giữa các trường phái triết học thì giữa chúng đều có sự kế thừa lẫn nhau như là điều kiện tiền đề khách quan đối với sự hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng triết học. Chẳng hạn, sự ra đời và phát triển của triết học Mác đã bao hàm sự kế thừa mang tính phê phán đối với toàn bộ lịch sử của tư tưởng triết học trước đó, nhưng trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức thế kỷ XIII – XIX. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các trường phái triết học, phân biệt sự khác nhau những tư tưởng triết học duy vật và duy tâm trong một trường phái duy vật và duy tâm cũng chỉ mang tính chất tương đối. Bởi vì, trong một trường phái triết học duy vật, duy tâm không hẳn hoàn toàn là tư tưởng duy vật, duy tâm mà trong mỗi một trường phái đó ít nhiều có những tư tưởng của các trường phái triết học khác... Chỉ có điều, đó là kế thừa, sự phát triển những tư tưởng triết học phù hợp với sự ra đời và phát triển của mỗi một trường phái triết học. Chẳng thế, sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX, là giai đoạn của sự chuyển tiếp từ giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật của C.Mác và Ph.Ăngghen...
Sự phát triển của triết học không chỉ là sự tác động qua lại giữa các trường phái triết học, mà còn thể hiện sự tác động giữa triết học với các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, pháp quyền, đạo đức, khoa học, tôn giáo và thẩm mỹ. Sự tác động qua lại lẫn nhau đó làm cho các hình thức phát triển của triết học rất đa dạng. Triết học không chỉ là cơ sở lý luận cho các hình thái ý thức xã hội khác. Điều đó cho thấy, nhiều khi nghiên cứu các tư tưởng triết học phải thông qua nghiên cứu, khái quát từ các hình thái ý thức xã hội khác.
2. Sự phân chia các thời kỳ của lịch sử triết học
Sự phân chia các thời kỳ của lịch sử triết học, một mặt căn cứ vào các phương thức sản xuất khác nhau trong lịch sử xã hội; mặt khác còn được qui định bởi bước ngoặt cách mạng của các học thuyết triết học có tính thời đại (triết học lớn), nhưng đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội nhất định.
Sự phân chia các thời kỳ khác nhau của lịch sử triết học về cơ bản đều thông qua cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và triết học duy tâm gắn liền với các giai đoạn khác nhau của sự phát triển của khoa học;
Có thể khái quát lịch sử hình thành và phát triển của triết học bao gồm các thời kỳ:
1.      Triết học cổ đại;
2.      Triết học trung đại;
3.      Triết học phục hưng và cận đại;
4.      Triết học cổ điển Đức;
5.      Triết học Mác – Lênin;
6.      Triết học phương Tây hiện đại.
III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Vai trò thế giới quan của triết học
Nhận thức về thế giới, về bản thân trong mối quan hệ với thế giới để điểu chỉnh hoạt động của mình là một nhu cầu nhận thức của con người. Đó cũng quá trình hình thành thế giới quan.
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về cuộc sống và vai trò của con người đối với thế giới. Sự hình thành và phát triển thế giới quan đều thông qua hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội.
Nội dung của thế giới quan phản ánh thế giới và vai trò của con người ở ba phương diện:
- Khách thể (các đối tượng bên ngoài chủ thể - đối tượng nhận thức);
- Chủ thể (con người dưới các hình thức là cá nhân hoặc cộng đồng xã hội – chủ thể nhận thức);
- Mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể.
Nội dung của thế giới quan, một mặt phản ánh hệ thống những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới; mặt khác cũng phản ánh vai trò của con người đối với thế giới. Nội dung cơ bản của thế giới quan cũng là việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Xét về cấu trúc, thế giới quan bao gồm nhiều yếu tố: tình cảm, niềm tin, lý tưởng, tư tưởng, tri thức.  Trong đó có hai yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, khi nó là niềm tin để hình thành lý tưởng, động cơ thôi thúc con người hành động.
Sự hình thành và phát triển của thế giới quan về cơ bản có ba hình thức: thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Như vậy, một thế giới quan khoa học là thế giới quan có sự thống nhất giữa tri thức và niềm tin có ý nghĩa định hướng cho hoạt động của con người khi phản ánh thế giới, khi xác định thái độ, cách thức hoạt động và hình thành nhân sinh quan nói chung của con người.
Thế giới quan có các chức năng: chức năng nhận thức, đánh giá, xác định giá trị, điều chỉnh hành vi của con người. Khái quát lại, chức năng quan trọng nhất của thế giới quan là ý nghĩa định hướng cho hoạt động nói chung của con người.
Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học. Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan triết học đối lập nhau.
2. Vai trò phương pháp luận của triết học
Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là những nguyên tắc trong việc xác định phương pháp và lý luận về phương pháp. Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời một lĩnh vực đặc thù của tri thức triết học và khoa học lý thuyết - đó là phương pháp luận.
Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung của toàn bộ nhận thức khoa học, trong đó bản thân thế giới quan cũng mang một ý nghĩa về mặt phương pháp luận. Trong lịch sử triết học có hai phương pháp đối lập nhau, - đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.  
Phương pháp hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống các nguyên tắc được sử dụng nhất quán trong hoạt động nói chung của con người. Phương pháp bao gồm có phương pháp nhận thức và phương pháp thực tiễn. Phương pháp của triết học là phương pháp nhận thức chung nhất về thế giới. Trong lịch sử phát triển của triết học, đã tồn tại hai phương pháp nhận thức đối lập nhau: đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức thế giới với quan điểm cơ bản cho rằng, sự tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan nói chung đều ở trong những mối liên hệ, trong sự vận động và phát triển theo những qui luật khách quan vốn có của nó.
Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức thế giới với quan điểm cơ bản cho rằng, mọi sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại cô lập lẫn nhau, cái này ở bên cạnh cái kia và nó luôn ở trong trạng thái tĩnh không có sự vận động và phát triển. Nhưng nếu như trong phương pháp siêu hình, họ có thừa nhận sự phát triển thì chẳng qua chỉ là một quá trình tăng hoặc giảm về số lượng. Mặt khác, quan điểm này không thừa nhận mâu thuẫn bên trong bản thân các sự vật và hiện tượng.
Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong lịch sử triết học chủ yếu về mặt nguyên tắc và phương pháp nhận thức thế giới khách quan.
Trong việc nghiên cứu của khoa học tự nhiên, thì vấn đề phân chia thế giới hiện thực thành các thuộc tính, bộ phận, hệ thống tĩnh tại và tách rời nhau đều là những điều kiện cần thiết cho nhận thức khoa học. Nhưng sẽ không đúng, nếu từ đó rút ra kết luận cho rằng phép siêu hình là thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Cần phải phân biệt một bên là phương pháp trừu tượng hoá tạm thời cô lập sự vật và hiện tượng khỏi mối liên hệ chung, tách khỏi sự vận động và phát triển để nghiên cứu chúng trong khoa học cụ thể với một bên là phép siêu hình với tư cách là thế giới quan của triết học.
3. Vai trò của triết học đối với khoa học cụ thể và đối với tư duy lý luận
Là một hình thái của ý thức xã hội, triết học và các hình thái của ý thức xã hội khác đều có sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo thành dòng chảy lịch sử tư tưởng nói chung của nhân loại. Sự hình thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của khoa học cụ thể, thể hiện sự khái quát những thành tựu của khoa học cụ thể qua các thời kỳ khác nhau của xã hội. Đến lượt nó, triết học lại có vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể. Đó là vai trò thế giới quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận trong việc đánh giá thành tựu đã đạt được, cũng như chỉ ra phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu của khoa học cụ thể. Về vấn đề này, A.Anhxtanh đã nhận xét: “Các khái quát của triết học cần phải dựa trên kết quả khoa học. Tuy nhiên, mỗi khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường ảnh hưởng đến sự phát triển của tư tưởng khoa học khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương hướng phát triển có thể có”[17]. Cũng vì thế, mà nhà tư tưởng lớn nhất của triết học cổ điển Đức là Hêghen cũng đã viết: Tôi biết nhiều khoa học tuyệt vời, nhưng tôi không biết khoa học nào tuyệt vời hơn triết học. Dù có cố gắng suy luận mà không quan tâm đến triết học, các khoa học khác thiếu nó thì vẫn không thể có sự sống, tinh thần, chân lý.
 Vai trò của triết học đối với các khoa học cụ thể đều thể hiện thông qua vai trò nhất định nào đó của các trường phái triết học, chứ không thể đồng nhất với một trường phái triết học và càng không thể tuyệt đối hoá một thời kỳ nào đó của lịch sử triết học. Tuy nhiên, mỗi một trường phái triết học đề có vai trò khác nhau đối với các khoa học cụ thể. Khi nghiên cứu tính quy luật về sự hình hành, phát triển của lịch sử tư tưởng triết học, chúng ta có thể căn cứ vào cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và triết học duy tâm để xem xét các trường phái triết học khác. Sự tiếp cận đó là có cơ sở khoa học, nhưng sẽ thiếu sót, dẫn đến tư tưởng cực đoan, phiến diện nếu chúng ta lại cho rằng tất cả những gì thuộc về chủ nghĩa duy vật sẽ là khoa học và tất cả những gì của chủ nghĩa duy tâm đều là phản khoa học. Một thực tế thường thấy, khi mọi người thường đặt ra câu hỏi: ai sẽ thắng trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm? Chỉ có thể trả lời câu hỏi này, khi chúng ta nghiên cứu vai trò của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đối với khoa học cụ thể ở cả hai phương diện thế giới quan và phương pháp luận của nó. Hơn nữa, khi đánh giá vai trò của mỗi một trường phái còn xem xét khuynh hướng phát triển của mỗi một trường phái gắn liền với điều kiện lịch sử xã hội nhất định.
Với sự phân tích và phương pháp tiếp cận như đã nêu, chúng ta thấy rằng trong lịch sử triết học, về cơ bản thì chủ nghĩa duy vật đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển của khoa học; ngược lại chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng làm công cụ biện hộ cho tôn giáo và cản trở sự phát triển của khoa học.
Ở thời kỳ cổ đại, triết học tự nhiên (một hình hức cơ bản của chủ nghĩa duy vật) đã khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên đã trình bày một bức tranh tổng quát về thế giới và dự báo thiên tài định hướng cho khoa học phát triển. Đến thời trung cổ ở phương Tây, triết học kinh viện (thần học) là công cụ biện hộ cho tôn giáo, cản trở sự phát triển của khoa học. Thời kỳ phục hưng và cận đại, chủ nghĩa duy vật đã phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học tự nhiên, chống lại chủ nghĩa kinh viện và thống trị của giáo hội. Tuy nhiên, vào thời kỳ này, quan điểm “Triết học là khoa học của các khoa học” và phương pháp tư duy siêu hình vẫn giữ vai trò thống trị. Sự phát triển của khoa học cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã làm cho quan điểm: “Triết học là khoa học của các khoa học” và phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp nữa.
Vì vậy, sự ra đời của triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phê phán tư duy siêu hình. Trong các trường phái triết học của triết học cổ điển Đức, triết học duy tâm của Hêghen, theo nhận xét của Ph.Ăngghen “không chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực, ông xuất hiện ra là một người vạch thời đại”[18]. Theo nghĩa đó, triết học duy tâm Hêghen, nhất là phép biện chứng của Hêghen không chỉ có ý nghĩa đối với triết học cổ điển Đức nói chung, đối với sự ra đời của triết học Mác nói riêng, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến các khoa học cụ thể khác như đạo đức, pháp quyền, lôgíc, mỹ học…mặc dù, trong hệ thống triết học của ông còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn bởi thế giới quan duy tâm.
Triết học phương Tây hiện đại muốn từ bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng. Đó là khuynh hướng tiếp tục ý đồ vượt lên trên sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; xa rời phép biện chứng; phá vỡ sự thống nhất giữa bản thể luận, nhận thức và lôgíc học… Nhưng triết học phương tây hiện đại đã đặt ra những vấn đề cấp bách về mối quan hệ giữa triết học và khoa học và tính chất chuyên ngành trong triết học; nhưng nhìn chung, họ chưa giải quyết một cách triệt để của một số vấn đề cấp bách đó.
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng (triết học của C.Mác và sự phát triển của V.I.Lênin) cũng là sự khái quát những thành tựu của khoa học, nhất là khoa học hiện đại; đồng thời, nó lại đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại với tính cách là thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học cho các khoa học cụ thể.
Cố nhiên, triết học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận, như vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả năng nhận thức của con người ở các phương diện khác nhau. Song, sự hình hành và phát triển của triết học đều trên cơ sở khái quát những thành tựu của khoa học cụ thể và có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển của khoa học cụ thể. Triết học không chỉ có vai trò to lớn đối với các khoa học cụ thể, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với rèn luyện năng lực tư duy lý luận của con người. Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”[19] và hoàn thiện năng lực tư duy lý luận, không có một cách nào khác là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước


[1]Kant Em manuel (1724 – 1804), nhà triết học theo chủ nghĩa hoài nghi luận và chủ nghĩa duy tâm chủ quan, người sáng lập ra triết học cổ điển Đức thế kỷ XIII – XIX.

[2] Hégel Georg Wihelm Friedrich (1770 – 1831), nhà bách khoa toàn thư và triết học duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII – XIX.


[3] Bacon Francis (1561 – 1626), người sáng lập chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm hiện đại.

[4] Hobbes Thomas (1588 – 1679), nhà triết học duy vật Anh.

[5] Didrot Deni (1713 – 17840, nhà triết học duy vật Pháp.

[6] Spinoza  Baruch (1632 -1677), nhà triết học duy vật Hà Lan.

[7] Triết học phương Tây hiện đại như triết học hiện sinh, thực dụng…

[8] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr. 403.

[9] Berkley George (1684 – 1753), nhà triết học duy tâm chủ quan, linh mục người Anh.

[10] Rene Descartes (1596-1650)  nhà triết học, bách khoa toàn thư vĩ đại người Pháp. Đêcáctơ là nhà triết học duy vật, nhưng ông lại giải thích sự tồn tại của giới tự nhiên theo những quy luật cơ học.

[11]Platon (427 – 3470 TCN), nhà triết học duy tâm khách quan Hy lạp cổ đại.

[12] Héraclite d’Ephèse (khoảng 540 – 480 TCN), nhà triết học duy vật cổ Hy Lạp.

[13] La Mettrie Julien Offroy de (1709 – 1751), nhà triết học duy vật Pháp.

[14] Didrot Deni (1713 – 1784), nhà triết học duy vật Pháp.

[15] Holbach Paul Henri (1723 – 1789), nhà triết học duy vật chủ nghĩa Pháp.

[16] Ph. Ăngghen: Chống Duyrinh, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 544.

[17] A.Anhxtanh và Innphendo: Sự phát triển của vật lý học, Mátxcơva, 1965, tr. 48 (tiếng Nga).

[18] C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1981, t. 6, tr. 367.


[19] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 489.

0 nhận xét :