Kỷ niệm 28 năm ngày mất Cố Tổng bí thư Lê Duẩn (10.7.1986 - 10.7.2014)
Bác Hồ và Cố Tổng bí thư Lê Duẩn năm 1960
Trên cương vị là Bí thư thứ nhất và sau đó là Tổng Bí thư suốt
26 năm, ông Lê Duẩn đã để lại nhiều di sản cho lịch sử Việt Nam. Có thể
người ta còn tranh cãi về ông ở vài vấn đề, nhưng công lao to lớn trong
sự nghiệp giải phóng và thống nhất dân tộc cũng như ý chí kiên cường và
tinh thần cảnh giác cao độ trong việc chống lại chủ nghĩa bá quyền Trung
Quốc, thì có lẽ ít người nghi ngờ…
Bài học lớn về Trung Quốc
Trước hiệp định Geneva, ông Lê Duẩn là
người lãnh đạo phong trào cách mạng ở miền Nam. Như nhiều nhà lãnh đạo
của Việt Nam khi ấy, ông thực sự tin Trung Quốc là người anh em, đồng
chí thực sự của cách mạng Việt Nam.
Năm 1954, Hiệp định Geneva được ký kết
đã bẻ ngoặt nhận thức của ông về mối quan hệ với Trung Quốc. Nhà thơ
Việt Phương, thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng kể:
“Khi bàn thảo về Hiệp định Geneva, Bộ
Chính trị của ta chỉ đồng ý lấy vĩ tuyến 16 là ranh giới cuối cùng của
khu phi quân sự tạm thời giữa hai miền Nam – Bắc trong thời gian chờ
tổng tuyển cử. Nhưng Trung Quốc với sự ảnh hưởng của mình, đã khăng
khăng ép ta phải đồng ý chọn vĩ tuyến 17. Khi chúng ta bàn bạc vấn đề
này với Trung Quốc, họ đã nói: “Chúng tôi là tướng ngoài mặt trận. Các
đồng chí hãy để cho chúng tôi tùy cơ ứng biến”. Khi nói như thế, người
Trung Quốc đã tự cho mình quyền định đoạt số phận của người Việt Nam”.
Thời điểm đó, ta đã kiểm soát phần lớn
vùng Nam bộ, ngoại trừ một vài đô thị nhỏ. Ở miền Bắc, ta chiến thắng
vang lừng ở Điện Biên. Nhưng Trung Quốc đã bắt ta phải ký một hiệp định
chia cắt đất nước - một hành động mà sau này như nhiều người nói: “người
anh lớn” đã phản bội lại “người em” của mình.
Sau khi hiệp định được ký, trên đường
từ Bắc vào Nam, nhìn những quân dân miền Nam giơ 2 ngón tay chào nhau,
vừa là biểu tượng victory - chiến thắng, vừa là lời hẹn 2 năm sau sẽ
đoàn tụ, ông Lê Duẩn đã khóc. Ông hiểu, sẽ không bao giờ có tổng tuyển
cử, sẽ không bao giờ chỉ là 2 năm…Rồi đây đất nước sẽ còn bị chia cắt
rất lâu vì Hiệp định Geneva năm đó.
Sau đó, khi chia tay Lê Đức Thọ ra Bắc
tập kết, ông Lê Duẩn đã nói với người đồng chí của mình một câu rất nổi
tiếng: “Anh ra nói với Bác, 20 năm nữa tôi mới được gặp Bác”.
Rất trùng hợp, 20 năm sau, đất nước
thống nhất. Nhưng quan trọng hơn, đó là lần ông Lê Duẩn thực sự thấy
thấm thía nhất về nỗi đau chứng kiến đất nước ông đã bị người anh em
Trung Quốc phản bội. Năm 1972, trong một cuộc trò chuyện với Chu Ân Lai,
nhắc lại về Hiệp định Geneva, ông Lê Duẩn đã không ngần ngại lên án:
“Năm đó, người Trung Quốc các anh đã bán đứng chúng tôi trên bàn đàm
phán”.
Dù là năm 1954 hay năm 1972 hay sau này,
dù là lúc đang lãnh đạo cách mạng miền Nam hay khi đã ra Bắc lãnh đạo
cuộc kháng chiến chống Mỹ, kể cả khi đất nước đã thống nhất, chưa một
phút giây nào, TBT Lê Duẩn quên bài học đó.
“Chúng ta không được phép sợ Trung Quốc”
Khi còn sống, TBT Lê Duẩn luôn cho rằng,
hiểu Trung Quốc là chuyện sống còn của dân tộc Việt Nam, khi mà lịch sử
địa lý, trớ trêu thay đã khiến ta mãi mãi phải là láng giềng của họ. Mà
để hiểu người Trung Quốc nhất định phải hiểu được những đặc tính của
dân tộc Việt Nam.
Đắm chìm vào trong dân tộc để hiểu cái ở
ngoài dân tộc và giữ dân tộc là cách mà TBT Lê Duẩn đã làm khi ở cương
vị người đứng đầu đất nước.
Trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu
nước, nhân danh việc chi viện, giúp đỡ chúng ta, rất nhiều lần Trung
Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ. Có lần Trung Quốc đề
nghị cho chúng ta 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện kèm lái xe
của họ. Nhưng TBT Lê Duẩn không nhận bất cứ một chiếc xe nào.
Có người trong Bộ Chính trị đề nghị “sao
ông không nhận một vài chiếc cho người ta vui?”, nhưng TBT Lê Duẩn vẫn
kiên quyết giữ lập trường của mình: “Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi
không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt
Nam này”.
Hẳn là vì hiểu rõ dân tộc, mà ông đã
không quên rằng, Trung Quốc từng mượn đường vào đánh Chiêm Thành thời
nhà Trần, rồi từng lấy cớ vào giúp vua Lê Chiêu Thống để kéo quân vào Hà
Nội. Như một nhà nghiên cứu về quan hệ Việt Nam với Trung Quốc đã từng
nhận xét về ông: “Với TBT Lê Duẩn, cái gì nhịn được thì nhịn, nhưng ông
tuyệt đối không bao giờ nhượng bộ những điều quá đáng, nguy hại cho an
ninh quốc gia”.
Tổng bí thư Lê Duẩn thăm một đơn vị tên lửa phòng không bảo vệ Hà Nội
Điều mà TBT Lê Duẩn vẫn thường cố gắng
cắt nghĩa là tại sao Trung Quốc đô hộ Việt Nam 1.000 năm mà không đồng
hóa được ta? Bởi 1.000 năm là quá dài, và người Trung Quốc chưa bao giờ
giấu diếm tham vọng ấy suốt những thời kỳ họ cai trị Việt Nam. Trong
lịch sử, nhiều dân tộc khác bị đồng hóa rất dễ dàng chỉ với vài trăm
năm, nhưng sự khác biệt của người Việt Nam đã khiến dân tộc này thoát
khỏi quy luật đáng sợ đó.
Có rất nhiều thứ người Trung Quốc cho là
chân lý, nhưng người Việt Nam không chấp nhận. Người Trung Quốc dùng
đạo Khổng để giáo dục người dân. Người Trung Quốc dạy: “Tại gia tòng
phụ”, nhưng người Việt Nam nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Người
Trung Quốc nói “xuất giá tòng phu”, người Việt Nam lại cho rằng “Thuận
vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.
Và ông Lê Duẩn luôn nhìn thấy, qua những
khác biệt đó người Việt Nam vừa để dạy mình, vừa thể hiện sự phản kháng
với tư tưởng đó, và sâu sa hơn là phản kháng sự đồng hóa mà người Trung
Quốc cố tình áp đặt lên số phận của dân tộc Việt Nam. Sự phản kháng này
nằm sâu trong mầm mống tồn tại của dân tộc, khiến sức mạnh đồng hóa của
người Trung Quốc không đâm thủng được. Trung Quốc ngày đó bắt người phụ
nữ bó chân, nhưng người Việt Nam không bao giờ đồng ý. Với người Việt
Nam, để sinh tồn thì bàn chân là phải vững chắc trên mảnh đất này. Đó là
một nền tảng văn hóa vô cùng Việt Nam, tự thân người Việt Nam và nó đối
chọi hoàn toàn với người Trung Quốc.
Dường như, khi hiểu được truyền thống ấy
và sức mạnh phản kháng ấy của dân tộc, TBT Lê Duẩn đã luôn có tự tin
khi đứng trước những nhà lãnh đạo Trung Quốc, đứng trước sức mạnh của
người Trung Quốc, trong rất nhiều giai đoạn thăng trầm của mối quan hệ
giữa hai nước.
Một lần, khi ra ngoài Bắc bàn về đấu
tranh miền Nam, ông Lê Duẩn nói: “Thưa Bác, chúng ta muốn thắng Mỹ, có
một điều rất quan trọng là chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng
không được sợ Trung Quốc và không được sợ Liên Xô”.
Có người trong Bộ Chính trị phản đối ý
kiến đó. Nhưng ông Nguyễn Chí Thanh đã đứng lên ủng hộ: “Thưa Bác, việc
anh Ba nói vậy là vô cùng cần thiết và nhất định phải như vậy chúng ta
mới thắng được”.
Cả Bộ Chính trị vỗ tay hoan hô ý kiến
đó. Chỉ tiếc là đến giờ những văn bản họp Bộ Chính trị khi đó hầu như
vẫn chưa được công bố, khiến những câu chuyện này không thực sự được
biết rộng rãi trong dân chúng.
Điều khiến nhiều người suy nghĩ là những
năm tháng đó, trong lúc khó khăn nhất, khi mà chúng ta đang dựa vào họ,
thành bại của cuộc chiến tranh phụ thuộc một phần không nhỏ vào sự ủng
hộ của họ, nhưng TBT Lê Duẩn vẫn biết cách giữ được vị thế của mình với
những nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Ông cũng rất khéo léo giữ được độc lập
của đất nước mà vẫn khiến Trung Quốc duy trì sự ủng hộ với Việt Nam
trong một giai đoạn dài. Cái ý thức “không sợ Trung Quốc” ấy có lẽ đã
khiến TBT Lê Duẩn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng luôn ở thế ngang
bằng với những lãnh đạo Trung Quốc như Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông, Đặng
Tiểu Bình. Nhưng cũng chính vì tư tưởng đó, TBT Lê Duẩn đã trở thành nhà
lãnh đạo Việt Nam khiến Trung Quốc e dè, nếu không muốn nói là “gai
mắt” nhất trong giai đoạn ấy.
Nhà thơ Việt Phương từng kể một câu
chuyện: “khi Bác Hồ đang chữa bệnh ở Trung Quốc, TBT Lê Duẩn có chuyến
thăm Trung Quốc và ở gần nơi Bác chữa bệnh. Bác Hồ lúc đó đã bảo với
ông Lê Duẩn: “Chú Ba đến ăn cơm với Bác. Chắc là họ chưa đến mức có ý
định giết Bác. Bác đã rất nghi ngại việc
TBT Lê Duẩn ở một mình có thể có những chuyện không hay và tìm cách giữ
an toàn cho ông bằng mọi cách”.
Từ năm 1976, khi ta căng thẳng với Trung
Quốc, mỗi lần sang Trung Quốc, khi những người lính cần vệ của TBT Lê
Duẩn đưa dụng cụ đo phóng xạ vào phòng ông kiểm tra, bao giờ độ phóng xạ
cũng ở mức kịch kim. Có người lính cận vệ đã đề nghị ông đổi phòng vào
ban đêm một cách bí mật. 1 năm sau đó, người lính cận vệ đó bị ung thư
máu qua đời, dù trước đó rất khỏe mạnh. Đó có thể chỉ là một sự trùng
hợp, nhưng cũng có thể không…
2 tháng qua, khi Trung Quốc ngày càng
tráo trở và ngang ngược ở biển Đông, với tham vọng bá quyền không giấu
diếm, rất nhiều người dân Việt Nam nhớ về vị TBT mà lịch sử đã nhìn nhận
là người có đường lối cứng rắn nhất với Trung Quốc.
Có lẽ ngày hôm nay, với vấn đề biển
Đông, người Việt Nam chúng ta sẽ phải nhớ lại câu nói của cố TBT Lê Duẩn
và bài học mà ông đã để lại: “Chúng ta, bằng bất cứ giá nào, cũng không
được phép sợ Trung Quốc”.
- Thảo Nguyên
0 nhận xét :
Đăng nhận xét