Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2015

Thơ Hồ Xuân Hương: Tính dục và tâm thức phản kháng

Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam. Hồ Xuân Hương là người đầu tiên xử dụng thơ mang tính dục (sexual) của ngôn ngữ văn học hiện đại nước ta. Có thể nói rằng ngôn ngữ văn học Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về bản chất và khả năng biểu hiện đầy đủ, sâu sắc qua dòng thơ của Hồ Xuân Hương. Đây là một dấu hiệu tiến bộ trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn học.

Hồ Xuân Hương xử dụng tài tình một lối ngôn ngữ đặc thù cho văn thơ; nói lên những yếu tố tâm lý nhân gian rút ra từ những tập quán thông thường, mô tả trắng trợn sự hiếu dục, hiếu sắc giữa hai bề mặt của tri giác.
Những trắc ẩn đó không một ai nói ra hoặc có chăng nữa cũng nữa úp nữa mở bởi những ước lệ khắc khe của Nho giáo của đạo đức xã hội; vì vậy mà không dám”vi phạm” dù dưới hình thức nào của chữ nghiã. Hồ Xuân Hương huỵch toẹt những tệ đoan xã hội, những tiềm ẩn chôn vùitrong lòng sâu của tâm hồn bằng những vần thơ tả chân, lột tả tột độ quan niệm nhân sinh. Nữ sĩ không e lệ, không ngượng ngùng, không sợ thị phi phê phán ở tuổi xuân thì của một thiếu nữ đương thời. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã dân tộc hoá những đặc tính văn hoá chữ Hán mà trước đây xử dụng dè dặt trong văn học chữ Nôm; nhờ điều hòa hai luồng tư tưởng cố hữu nói trên bà đưa vào những vần thơ phản ảnh đích thực hiện trường của một xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
Tác giả Hồ Xuân Hương là sản phẩm đúc kết của thế giới ngoại quan và tác động tâm trí nội quan qua từng thời kỳ hay qua từng chặng đường lịch sử mà mỗi thời là động lực lôi cuốn sự biến thái của ý tưởng và ngôn ngữ nhất là ngôn ngữ của văn học những uẩn khúc của thân phận, thân phận bị chà đạp, cưỡng ép, bức tức mà người phụ nữ phải gánh chịu. Hồ Xuân Hương lấy thơ để riễu đời, để miệt thị những kẻ lộng quyền, nói lên những thói hư tật xấu mà xã hội phong kiến đã dung tục đã bao che. Tư tưởng bung xung của nữ sĩ phản ảnh đích thực của cuộc đời mà bà đã sống và thấy. Tuy nhiên; Hồ Xuân Hương không phải là người quá khắc khe với ngôn ngữ hay chủ quan của mình, lời thơ của Hồ Xuân Hương bay bổng và phát tiết ra muôn màu muôn sắc về thế thái nhân tình.
Hồ Xuân Hương một danh sĩ lừng lẫy; hơn phân nữa(100 bài thơ) thơ văn của bà để lại gồm có 17 bài tứ tuyệt, 38 bài Đường luật, 1 bài lục bát biến thể*. Nữ sĩ để lại cho đời những bài thơ bất hủ được truyền tụng cho tới ngày nay. Nhưng có điều; lịch sử văn học chưa xác quyết ngày sinh, tử của Hồ Xuân Hươngmặc dù đã kinh qua một thời gian dài lâu nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà biên khảo. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương người xứ Nghệ, gia đình bà thiên di ra Thăng Long và bà chào đời ở Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận gần Hồ Tây. Nơi đây; về sau bà thành lập Cổ Nguyệt Đường làm chỗ thù tạc văn nhân thi phú.
Cuối cùng; chẳng tìm ra Hồ Xuân Hương ra đời vào năm nào và mai táng nơi đâu. Đời chỉ dựa vào văn thơ, tình yêu hoặc những giai thoại truyền khẩu trong dân gian mà giả định(assume) tiểu sử của bà; ngoài ra không để lại một chứng tích tài liệu nào khác hơn.
Nhìn vào hình ảnh cuộc đời của Hồ Xuân Hương, chúng ta không đòi hỏi một yêu cầu nào khác hơn. Nhưng may thay những bài thơ của bà nói lên hình ảnh trung thực của chân lý, hình ảnh trung thành với cuộc đời. Trước cuộc đời và vũ trụ, tiếng thơ của Hồ Xuân Hương được hòa vào thời gian, được gieo vào cung bậc của thơ, được ngâm lên bằng âm thanh chắt lọc cô đọng và thấm sâu vào lòng đất trong một tâm giới của tình yêu, của quả cảm, của xao xuyến, của bức rức, của “kinh kỳ” của chuyển động cơ thể tạo nên những bộc phá nội tại. Nữ sĩ họ Hồ là một nữ nhi “thông minh vốn sẵn tại trời” (ND) ở tuổi tám, mười phát ra từ khẩu khí một lời thơ không phải bình thường và dể dầu như vậy. Từ cuộc đời, từ vũ trụ ngoại giới đã ý thức một vũ trụ tâm hồn; cha chết ở mười tuổi, rồi tới mẫu thân rồi lại nhiễu nhương. Những dằn vặt nội tại chính là những bi thương cuộc đời …
“Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài”
(Thơ nôm truyền tụng)
Tiềm ẩn cả một tâm hồn phản kháng, thách thức giữa vũ trụ quan và vũ trụ nội giới cái nhìn của Hồ Xuân Hương khác với cái nhìn của tâm lý học, của triết học. Bởi Hồ Xuân Hương đang đứng giữa của chủ thể, của tâm sinh lý của thời kỳ chuyển kinh trước khi ý thức sự vật ngoại giới. Trên lý thuyết mang tính chất có thực(reality) nhưng trong vai trò chủ thể Hồ Xuân Hương chỉ biết về mình khi có sự vật ngoại giới hiện diện làm cho mình trở nên hiện hữu, vì rằng; ở tuổi mười, mười lăm của Hồ Xuân Hương là một phản kháng nội tại, một yếu tố tâm sinh lý thường xảy ra cho những tuổi dậy thì, một phản kháng siêu hình”giơ tay với thử.. ”là cả một đòi hỏi vượt mức, Hồ Xuân Hương muốn dấn thân, không sợ, không thị phi; “xoạc” với một ý thức trẻ thơ mà đã trưởng thành ở nội giới, nội giới ấy là hình ảnh, biểu lộ tự nhiên đưa tới sự cố là hình ảnh của gợi cảm của ngôn từ. Cũng nhờ đó soi rõ nội tâm Xuân Hương khi đụng chạm với vũ trụ ngoại giới “Trong sâu thẳm của mỗi từ ngữ, tôi chứng kiến sự sinh tôi”
(A fond de chaque mot. J’assiste à ma naissane) Alain Bosquet. Sở dĩ có được những ngôn từ, dù ẩn thể, nó cũng mang lại một cái nhìn thoáng vụt nhưng kinh hoàng giữa hai hình thái sáng tạo và ngôn từ trong tâm lý thơ của Hồ Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương lớn dần với thời gian nẩy sinh trong lòng một tư tưởng yếm thế, đôi khi hoài nghi cho chính mình, và; cũng chưa hẳn định nghiã trọn vẹn hai chữ tục lụy. Thái độ ngập ngừng ở tuổi tròn trăng của Mai (Hồ Xuân Hương tự là Mai) khi đến thăm đài Khán Xuân:
Êm ái chiều xuân tới Khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút lòng ai
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sáng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân muôn trượng dể khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá ?
Cực lạc là đây chín rõ mười.
(Thăm Đài Khán Xuân)
Hồ Xuân Hương tả cảnh quang như một sự ngạc nhiên , nhưng hình ảnh ngạc nhiên là hình ảnh không xa lià đối tượng, gắn bó với đối tượng hiện hữu và trong hình ảnh thiên nhiên đó gắn bó với đối tượng suy tưởng, gắn bó một ý nghĩ của lòng mình là đã khám phá được nội giới mình qua đối tượng. Quan hệ của sự khám phá ấy chính là ngôn từ mà trong thơ của họ Hồ đã xử dụng để cho ta ý thứcsự tương ứng của ba hoàn cảnh qua một ngôn từ: biểu tượng ngôn từ, biểu tượng hình ảnh và biểu tượng tâm lý. Không có một đối tượng vũ trụ lúc ấy mà chỉ có cái nhìn từ vô ảnh mà ra, đó là tâm thức của con người. Không có một đối tượng vũ trụ mà chỉ dàn trải một tâm trạng bơ vơ giữa cảnh quan. Nội tâm chao động phát ra những ngôn từ:” êm ái, lâng lâng, nước lộn trời, dể khơi vơi …” Nữ sĩ Hồ Xuân Hương hiện tại thấy mình nhiều hơn thấy vũ trụ “Nào nào cực lạc là đâu tá?” thấy được sự hoài nghi tức là thấy được tâm trạng chơi vơi bằng một sự thức tĩnh trực tiếp của tâm trạng nhiều hơn qua đối tượng.
Tâm trạng vụt biến thành hình ảnh và thể hiện ra ngôn từ. Trong thế giới thơ, cõi phi ấy chiếm phần quan trọng trong sự khám phá của tâm hồn, có thể nói rằng ý thức của nghệ sĩ bình dân khi sáng tạo ra một câu thơ là do ý kiến về ngoại giới. Hồ Xuân Hương nhận sự vật trong không gian mà không sao thấy được đối tượng tình yêu mình mong muốn; cho nên mơ về (rêver à / a dreamy ) sự vật của vũ trụ là mơ về trạng thái thương nhớ của tình yêu. Đó là những trạng thái đẩy Hồ Xuân Hương vào sự chọn lựa hôn nhân. Nữ sĩ biết phận mình, gái ngoài hai mươi là gái lỡ thì đó là cái nhìn sâu xa của con người muốn tương giao với vũ trụ hiện hữu, mối tương giao đó tìm ra cõi lòng mình đang ẩn kín từ nội giới, trong bài Già Kén Kẹn Hom bà viết:
Bụng làm dạ chịu trách chi ai ?
“Già Kén Kẹn Hom” ví chẳng sai !
Tiếc điã hồng ngâm cho chuột vọc
Thừa mâm bánh lọc để ngưu vầy
Miệng khôn trôn dại đừng than phận
Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời
Đừng đứng núi này trách núi nọ
Thì đâu đến nỗi đói ăn khoai !
(còn tiếp)

0 nhận xét :