1. Cái thẩm mỹ – phạm trù nền tảng của mỹ học
Quan
hệ thẩm mỹ với hiện thực thể hiện trong mọi lĩnh vực cuộc sống và hoạt
hoạt động của con người. Hình thái cao nhất của mối quan hệ này là nghệ
thuật. Trước khi nghiên cứu hình thái cao nhất đó, cũng như các bộ phận
cấu thành quan hệ thẩm mỹ, chúng ta nghiên cứu toàn bộ mối quan hệ thẩm
mỹ nói chung.
Giữa
con người với hiện thực và con người quan hệ với nhau có có tính đa
dạng và phong phú. Một mặt, bởi tính đa dạng của hiện thực khách quan,
bởi sự tồn tại của nhiều lĩnh vực khác nhau trong thực tiễn xã hội. Mặt
khác, nó còn do sự phong phú của các nhu cầu, của các năng lực hình
thành trong lịch sử, của những thuộc tính chủ quan của con người.
Con người “đồng hoá[1]”
thế giới bằng nhiều phương thức khác nhau. Trước hết, con người cải
biến hiện thực về mặt thực tiễn nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất cơ
bản. Có thể coi đó là đồng hoá thế giới về mặt thực tiễn, thông qua hoạt
động vật chất của con người. Nhưng thông qua hoạt động thực tiễn con
người có khả năng nhận thức được thế giới. Quá trình nhận thức đó cũng
là một sự “đồng hoá”, nhưng là sự đồng hoá về mặt tinh thần, tức là nó
diễn ra trong ý thức, tư tưởng. Sự đồng hoá về mặt tinh thần này cũng
trên cơ sở hoạt động thực tiễn của xã hội, nhưng đến lượt mình nó có ý
nghĩa xác định tính mục đích, phương pháp và định hướng cho hoạt động
của con người.
Thực
tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của sự đồng hoá tinh
thần nói chung của con người về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết
học, khoa học, tôn giáo… sự đồng hoá tinh thần về mặt thẩm mỹ nói riêng
chính là sự khác nhau của sự đồng hoá tinh thần này.
Như
vậy, để xác định được bản chất của quan hệ thẩm mỹ của con người với
hiện thực, những đặc điểm phân biệt nó với các quan hệ chính trị, pháp
quyền, đạo đức, triết học, khoa học, tôn giáo thì cần phải nghiên cứu sự
nảy sinh hình thành và phát triển của nó, phân tích mặt khách thể – chủ
thể của nó, đặc biệt là giải quyết vấn đề phạm trù rộng nhất và chung
nhất của mỹ học.
Các phạm trù mỹ học hình thành và phát triển thông qua thực tiễn của lịch sử phát triển xã hội như: cái thẩm mỹ, quan hệ thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ, đời sống thẩm mỹ, khách thể, chủ thể, nghệ thuật… đó cũng là quá trình con người đồng hoá thế giới về mặt thẩm mỹ.
Cái
thẩm mỹ – phạm trù nền tảng của mỹ học. Nói một cách khác đây là phạm
trù phản ánh được thuộc tính chung nhất của các quan hệ thẩm mỹ – đđó là
tính thẩm mỹ. Ví dụ: Về bản chất của cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao
cả là những thuộc tính cùng loại thể hiện là các hiện tượng thẩm mỹ
khách quan. Cái thẩm mỹ (tính thẩm mỹ) là cái chung của cái đẹp, cái bi,
cái hài, cái cao cả, là cái phân định sự khác nhau giữa cái đẹp, cái bi
với các thuộc tính khác của hiện thực.
Trong lịch sử triết học, mỹ học có rất nhiều những quan điểm khác nhau về bản chất cái thẩm mỹ.
Mỹ học duy tâm khách quan cho rằng thuộc tính thẩm mỹ của hiện thực đều do sự vận động của “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối”
trong quan hệ thẩm mỹ. Đó là quan điểm của Platông và Hêghen. Platông
cho rằng không có cái thẩm mỹ tồn tại trong hiện thực mà nó tồn tại ở
thế giới ý niệm. Đối với Hêghen, cái thẩm mỹ tồn tại tập trung trong
lĩnh vực nghệ thuật nhưng xét cho cùng nó phụ thuộc sự quyết định của ý
niệm tuyệt đối, cái thẩm mỹ trong nghệ thuật được hình thành bởi con
người đối tượng hoá bản thân mình và chủ thể hoá cái hiện tượng thẩm mỹ
bên ngoài.
Mỹ
học duy tâm chủ quan của Cantơ cho rằng trong hiện thực vốn không có
thuộc tính thẩm mỹ, mà nó “trùng lặp về mặt thẩm mỹ trong quan niệm thẩm
mỹ của mỗi cá nhân”. “Đẹp không phải ở má hồng người thiếu nữ mà ở
trong mắt những kẻ si tình”. Đối tượng thẩm mỹ, cái thẩm mỹ chỉ nảy sinh
bởi sự đánh giá chủ quan, bởi tình cảm chủ quan của con người đối với
hiện thực.
Trong những thập niên gần đây[2],
quan điểm duy vật về cái thẩm mỹ có hai khuynh hướng trong các cuộc
tranh luận về bản chất của cái thẩm mỹ, nhưng cũng chủ yếu là tranh luận
về bản chất cái đẹp, cái cao cả trong tự nhiên và ý nghĩa của nó trong
đời sống xã hội; chứ không phải là sự bất đồng về bản chất cái bi, cái
hài.
Khuynh hướng “vị thiên nhiên”,
mà thực chất là phát triển những quan điểm mỹ học duy vật trước thế kỷ
XIX, họ coi những thuộc tính thẩm mỹ của hiện thực là những thuộc tính
tự nhiên. Những người “vị thiên nhiên” tìm bản chất cái thẩm mỹ ở những
qui luật vật lý, toán học và sinh học nào đó của thế giới vật chất.
Những khái niệm thường được họ sử dụng để định nghĩa cái đẹp là sự hài
hòa, sự cân đối, tính nhịp điệu, tính cấu trúc trong sự thống nhất và đa
dạng.
Ngược lại, khuynh hướng “vị xã hội”
giải thích bản chất cái thẩm mỹ là thuộc tính khách quan của hiện tượng
thẩm mỹ trong đời sống xã hội. Theo quan điểm này, những thuộc tính
thẩm mỹ của đối tượng và hiện tượng tự nhiên đều phụ thuộc vào xã hội,
nảy sinh do kết quả tác động của các nhân tố xã hội. Cách tiếp cận này
coi thường cơ sở khách quan của cái đẹp trong tự nhiên.
Tính
chất nền tảng của phạm trù cái thẩm mỹ của mỹ học hiện đại là ở chỗ nó
là phạm trù rộng nhất, bao quát nhất của mỹ học. Bởi vì, nó phản ánh
toàn bộ đời sống thẩm mỹ của con người từ các hiện tượng thẩm mỹ khách
quan là cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả cho đến các hoạt động thẩm
mỹ là yếu tố chủ quan của con người như nhu cầu, tình cảm, thị hiếu và
lý tưởng thẩm mỹ.
Để làm sáng tỏ bản chất cái thẩm mỹ cần giải đáp ba câu hỏi sau:
1. Cái thẩm mỹ có tính khách quan hay chủ quan?
2. Cái thẩm mỹ có phải là một giá trị xã hội?
3. Vai trò của thực tiễn đối với cái thẩm mỹ?
Cái
thẩm mỹ có tính khách quan, không mang tính chủ quan. Tính khách quan
của cái thẩm mỹ là thuộc tính thẩm mỹ tồn tại trong hiện thực, chúng tồn
tại khách quan độc lập với ý thức của con người. Nhưng không có nghĩa
phải thừa nhận những thuộc tính thẩm mỹ là những thuộc tính mang tính tự
nhiên, vốn sẵn có trong các sự vật, hiện tượng của hiện thực, tồn tại
bên ngoài xã hội, có trước xã hội loài người. Ví dụ: một bông hoa nếu
đem sắc thuốc, hoặc là vật thí nghiệm nghiên cứu tính chất lý hoá thì nó
vẫn có tính khách quan, nhưng không phải là bông hoa thẩm mỹ. Ngược
lại, không có nghĩa phải thừa nhận những thuộc tính thẩm mỹ là những
thuộc tính chỉ mang tính xã hội. Ví dụ: quan hệ sản xuất là quan hệ gắn
liền với sự xuất hiện của xã hội loài người, nhưng “hàng hoá”chỉ xuất
hiện trong những điều kiện lịch sử nhất định. Song, không phải vì thế mà
chúng không mang tính khách quan. Hơn nữa, tính khách quan của các hiện
tượng xã hội thể hiện ở sự tồn tại, sự tác động của chúng trong xã hội.
Các
nhà mỹ học duy vật trong lịch sử đã có công lao gắn cái thẩm mỹ với cơ
cấu vật chất, với đời sống xã hội. Song, cái thẩm mỹ không chỉ là một
thuộc tính của vật chất mà nó còn là một giá trị xã hội quan hệ với con
người trong quan hệ thẩm mỹ. Cái thẩm mỹ là một loại giá trị xã hội được
đo bằng thước đo thẩm mỹ của xã hội. Luận điểm này dựa trên học thuyết
Mác – Lênin về vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức, quá
trình đồng hoá thế giới về mặt thẩm mỹ.
Những
giá trị được hình thành và phát minh trên cơ sở qui luật của cái đẹp,
tức là những giá trị thẩm mỹ. Nói đến giá trị là nói đến cách nhìn, cách
đánh giá, từ cách đánh giá của con người đối với thế giới về nhiều mối
quan hệ khác nhau như kinh tế, chính trị, đạo đức, triết học, pháp
quyền, khoa học. Trong đó, cái thẩm mỹ không hẳn phải đối lập với các
quan hệ xã hội đó, nhưng nhất thiết phải khác về bản chất với các quan
hệ đó. Bởi, cái thẩm mỹ không đặt nền tảng trên sự thoả mãn những động
cơ về kinh tế, sự mưu cầu những lợi ích vật chất trực tiếp của con
người.
Thực
tiễn là những vòng khâu của quá trình nhận thức, trong đó thực tiễn vừa
là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của nhận thức, sự tiếp
nối của nó trong các vòng khâu lớn hơn, cao hơn làm cho nhận thức càng
đi sâu hơn nắm bắt được các bản chất và các qui luật của hiện thực khách
quan, phục vụ cho hoạt động thực tiễn cho quá trình cải tạo hiện thực
khách quan của con người.
Thực
tiễn lao động đã biến con người không chỉ là chủ thể xã hội, mà còn là
chủ thể thẩm mỹ, biến giới tự nhiên thành khách thể thẩm mỹ.
Lao
động và thông qua quá trình lao động, các giác quan của con người mới
có tính thẩm mỹ, đó cũng là quá trình thành năng lực thẩm mỹ của con
người, cái tai mới biết thưởng thức âm nhạc, con mắt mới biết nhận định
được cái đẹp của hình thức. Các giác quan thẩm mỹ chỉ phát sinh khi có
đối tượng tương ứng, “do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo qui
luật của cái đẹp”[3].
Về vấn đề này Ph. Ăngghen cũng thường nói rằng: “Chỗ khác nhau chủ yếu
và cuối cùng giữa con người và các loài động vật khác” là: “động vật chỉ
lợi dụng tự nhiên bên ngoài và chỉ gây ra những sự biến đổi trong tự
nhiên đơn thuần bằng sự có mặt của chúng, còn con người lại do đã tạo ra
những biến đổi trong tự nhiên mà bắt tự nhiên phải phục vụ cho những
mục đích của mình và thống trị tự nhiên”[4].
Từ những sự phân tích ở trên, chúng ta có thể xác định bản chất của cái thẩm mỹ: Cái thẩm mỹ là quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng thẩm mỹ và là giá trị xã hội[5].
2. Các bộ phận hợp thành quan hệ thẩm mỹ
Quan
hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực mang tính đa dạng và phong phú
được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Có ba bộ phận quan trọng
nhất của đời sống thẩm mỹ con người, đó là chủ thể – khách thể và nghệ
thuật.
Chủ thể thẩm mỹ
là con người xã hội và được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Quá trình hình thành và phát triển của chủ thể thẩm mỹ gắn liền với hoạt
động thực tiễn xã hội. Chính hoạt động thực tiễn làm xuất hiện năng
lực, nhu cầu thẩm mỹ của con người. Đó là năng lực cảm thụ, đánh giá và
sáng tạo thẩm mỹ. Và đó cũng là nhu cầu tình cảm, thị hiếu, lý tưởng
thẩm mỹ của con người. Hơn nữa, chỉ có các nhu cầu về cái
đẹp, tình cảm về cái đẹp – thị hiếu về cái đẹp – lý tưởng thẩm mỹ về cái
đẹp là đối tượng của mỹ học, còn các nhu cầu khác trong hoạt động xã
hội của con người là đối tượng nghiên cứu của các khoa học khác
Khách thể thẩm mỹ
với tính cách là đối tượng thẩm mỹ. Đó là các phạm trù mỹ học cơ bản
như cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả trong cuộc sống và trong nghệ
thuật. Các phạm trù mỹ học cơ bản có nguồn gốc khách quan dùng để chỉ
những phẩm chất, thuộc tính thẩm mỹ, - thuộc tính vốn có của các sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật tồn tại độc lập với ý
thức con người. Sự hình thành và phát triển của các phạm trù mỹ học cơ
bản là kết quả của sự khái quát và trừu tượng hóa những phẩm chất, thuộc
tính thẩm mỹ của hiện thực thẩm mỹ thông qua hoạt động thực tiễn của
con người.
Trong
các phạm trù mỹ học cơ bản, thì cái đẹp giữ vị trí trung tâm. Bởi vì
cái bi, cái hài, cái cao cả sở dĩ mang yếu tố thẩm mỹ vì chúng là các
hình thức tồn tại khác nhau của cái đẹp và được thể hiện trong mối quan
hệ với cái đẹp.
Nghệ thuật
ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Sự hình thành và phát triển
của nghệ thuật là một quá trình lịch sử lâu dài, gắn liền với những điều
kiện kinh tế – xã hội nhất định. Là một hình thái của ý thức xã hội,
nghệ thuật cũng có những đặc điểm chung giống với các hình thái ý thức
xã hội khác như chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, khoa học và
tôn giáo; nhưng nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc thù. Tính
đặc thù của nghệ thuật được thể hiện ở hình tượng nghệ thuật trong các
loại hình nghệ thuật.
Nghệ
thuật với tính cách là hình thái cao nhất của quan hệ thẩm mỹ, cũng bao
gồm sự hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật nhằm thoả mãn nhu cầu:
tình cảm – thị hiếu – lý tưởng nghệ thuật của cá nhân và xã hội. Nói đến
nghệ thuật là nói đến các qui luật của tình cảm, của cái đẹp. Sự phản
ánh cái xấu trong nghệ thuật cũng phải gắn với lý tưởng về cái đẹp. Do
đó, cái đẹp đã làm cho nghệ thuật thể hiện được bản chất, đặc trưng và
chức năng của nó và đồng thời nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của mỹ
học.
[1]
Assimiler: Đồng hoá, biến thành giống như bản thân mình, biến cái chưa
phải hoặc không phải của mình là cái thuộc về mình (theo nghĩa triết
học), con người có khả năng đồng hoá thế giới (bằng lao động, bằng thực
tiễn lẫn về mặt tinh thần) là nhận thức và cải tạo thế giới.
[2] Cuộc tranh luận về bản chất cái thẩm mỹ vào những thập niên 60 (thế kỷ XX)
[3] C. Mác, Bản thảo kinh tế – triết học 1844, Nxb Sự thật, Hà Nội 1962, tr. 93 – 94.
[4] Ph.Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1963, tr. 283.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét