Cái
đẹp không chỉ là đối tượng nghiên cứu của mỹ học mà nó còn là một lĩnh
vực rất đa dạng phong phú của nhiều ngành khoa học khác. Khái niệm cái
đẹp được con người sử dụng một cách phổ biến dùng để chỉ ý nghĩa xã hội
về mức độ của sự hoàn thiện – hoàn mỹ trong tính đa dạng, phong phú của các quan hệ thẩm mỹ.
Thật
khó khăn để định nghĩa cái đẹp, xây dựng những chuẩn mực của cái đẹp.
Vì thế, mà L.Tônxtôi đã viết: “Sách viết về cái đẹp đã chất lên thành
núi, nhưng cái đẹp vẫn là một câu đố giữa cuộc đời”. Hoặc như Hêghen thì
hãy để mặc cái đẹp trong “vương quốc của cảm giác”. Còn Cantơ: thì hãy
dành hoàn toàn cho sự thưởng ngoạn trực tiếp, để khỏi phá vỡ tính toàn
vẹn, đánh mất vẻ tươi nguyên vốn có của nó. Vậy cái đẹp, nguốc gốc, bản
chất và qui luật của cái đẹp là gì? Trong lịch sử mỹ học có những cách
thức tiếp cận cơ bản nào nghiên cứu cái đẹp?
Trước hết, cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong đời sống, nhưng đồng thời nó cũng dùng để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm mỹ tích cực có tính hoàn thiện, hoàn mỹ. Cái đẹp được hình thành khi con người biết đối chiếu, soi sánh với cái xấu. Từ
những sự quan sát bình thường chỉ ra cái gì đẹp, cái gì xấu, đến chỗ có
thể định nghĩa về cái đẹp quả là một quá trình lâu dài, khó khăn trong
lịch sử mỹ học.
Chính vì vậy, lúc đầu con người đã biết dùng khái niệm cái đẹp để chỉ tất cả những gì của đời sống thẩm mỹ có khả năng khơi dậy ở nới tâm hồn những cảm xúc thẩm mỹ
trong quá trình con người đồng hoá, sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ. Người
ta coi cái đẹp là sự hài hoà, sự đối xứng, sự tao nhã, sư linh hoạt, là
cái có chất lượng, là cái trật tự. Tiến dần lên, người ta coi cái đẹp
gắn liền với sự tiến bộ, cách mạng và mang tính nhân văn.
Cái xấu
cũng bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong đời sống, dùng
để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm mỹ tiêu cực, hạn chế, thái hoá
bất cập. Chẳng hạn, trong tự nhiên: cái gớm ghiếc, cái khủng khiếp, cái
quá cỡ, cái lộn xộn, không hình thù, cái kỳ quái, cái rườm rà, cái mất
cân đối, cái kỳ dị, cái dị dạng. Hoặc trong xã hội: Tính xu nịnh, gia
trưởng, trưởng giả, đua đòi, bon chen, tham ăn, tục uống, dối trá, lươn
lẹo, ích kỷ, vụ lợi, khoa trương, tầm thường, lố lăng, thô bỉ, thấp hèn.
Cái đẹp là một phạm trù trung tâm của mỹ học. Bởi
vì, một mặt mỹ học phải giải thích nguồn gốc, bản chất và qui luật
chung của cái đẹp; mặt khác, trong thế giới hiện thực có rất nhiều những
hiện tượng thẩm mỹ cũng nằm trong đối tượng nghiên cứu của mỹ học có
quan hệ với cái đẹp như: cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp
hèn. Về cơ bản trong lịch sử mỹ học có các khuynh hướng cơ bản sau đây nghiên cứu về cái đẹp:
Thứ nhất, mỹ học duy tâm khách quan đều
coi nguồn gốc của cái đẹp ở “thế giới ý niệm” (Platông) hay “ý niệm
tuyệt đối” (Hêghen), - đó là cái từ thế giới thuần túy trừu tượng bên
ngoài sự vật, truyền tính thẩm mỹ vào các sự vật chứ không có cơ
sở khách quan. Nói một cách chính xác hơn, theo họ cái đẹp không phải là
thuộc tính của vật chất mà là thuộc tính của tinh thần có trước và
quyết định tính thẩm mỹ của hiện thực.
Platông
coi cái đẹp thuộc về thế giới tinh thần, nó tồn tại ở thế giới giới ý
niệm và chi phối cái đẹp trong tất cả các sự vật cảm tính. Platông đã
nêu hai vấn đề của cái đẹp: cái đẹp là gì và cái gì là đẹp?
Platông nêu những quan niệm duy vật về cái đẹp, - như cái đẹp là một đồ
vật, một sự vật, một động vật, một con người nào đó để thấy rằng cái đẹp
nằm trong những thể thống nhất, đa dạng, cái đẹp mang tính tương đối
trong sự so sánh, cái đẹp là cái có ích. Sau khi nêu ra những
quan điểm đó, ông đã bác bỏ chúng và đề xuất, giải thích những quan điểm
của mình về cái đẹp. Ông khẳng định nguồn gốc, bản chất và qui luật của
cái đẹp là thế giới ý niệm.
Như
vậy, theo quan điểm của Platông cái đẹp là một ý niệm có sẵn, nó sản
sinh ra cái đẹp của mọi sự vật và soi sáng cái đẹp nơi tâm hồn con
người. Cái đẹp tồn tại vĩnh cửu, nó không bị hủy diệt, không tăng không
giảm, nó không đẹp ở chỗ này mà xấu ở chỗ khác. Đối với cái gọi là sáng
tạo thẩm mỹ chẳng qua chỉ là sự “Thần nhập” hay “sự “mách bảo” của thần
linh. Tư tưởng này được các nhà thần học thời trung cổ khẳng định lại.
Đó là tư tưởng của Tômát Đacanh, khi ông cho rằng: cái đẹp là sự nhận
thức mang lại sự thích thú. Cái đẹp chân chính là Chúa. Vì thế muốn
nhận thức được cái đẹp phải hòa mình vào Chúa.
Ở
một hình thức khác, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối” vận động đến một
trình độ nào đó thì nảy sinh cái đẹp (cái đẹp trong nghệ thuật). Cái
đẹp chính là sự thể hiện đầy đủ của ý niệm trong một một sinh thể riêng
lẻ, rằng cần phải loại bỏ cái đẹp trong tự nhiên và nếu có cái đẹp trong
tự nhiên thì nó chỉ là sự phản ánh cái đẹp tinh thần.
Thứ hai, mỹ học duy tâm chủ quan
cho rằng cái đẹp phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người mà cụ thể
hơn là ý thức chủ quan của mỗi cá nhân sản sinh ra cái đẹp. Trong quá
trình cảm thụ thẩm mỹ của các hiện tượng, sự vật cảm tính, con người
mang tính thẩm mỹ truyền vào nó và làm cho nó trở nên đẹp.
Một trong những đại diện tiêu biểu của mỹ học duy tâm chủ quan là Cantơ. Theo Cantơ, vấn đề chủ yếu không phải cái gì là cái đẹp, mà phán đoán về cái đẹp là gì.
Phán đoán về cái đẹp là phán đoán về thị hiếu, không phải là sự phán
đoán về nhận thức, phán đoán về lôgíc mà phán đoán là tình cảm chủ quan.
Phán đoán thị hiếu thuần túy là sự thưởng ngoạn thẩm mỹ của cá nhân, là
cái không vụ lợi và tự do. Cho nên, không có khái niệm về cái đẹp và
cũng không có qui tắc phán đoán về cái đẹp. Vì vậy, mỹ học duy tâm chủ
quan về cái đẹp coi tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp sẵn có trong mỗi cá
nhân, là cái gì đó gợi lên khoái cảm thẩm mỹ thì đó là cái đẹp. Ông nói:
“cái đẹp không tồn tại trên đôi má hồng của người thiếu nữ, nó chỉ tồn
tại trong mắt của những kẻ si tình”.
Thứ ba, mỹ học duy vật trước thế kỷ XIX. Từ
Arixtốt đến Điđơrô đến Tsécnưsépxki đều khẳng định cái đẹp không phải
là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối hay ý muốn chủ quan của con người, nó
không tồn tại thuần túy, mà chính là thộc tính khách quan vốn có của các
sự vật và hiện tượng. Tuy nhiên, do những nguyên nhân về mặt lịch sử
thì mỹ học duy vật trước đây đã không giải thích đúng đắn bản chất của
cái đẹp.
Trước
hết, họ coi bản chất của cái đẹp thể hiện ở quan hệ hình thức giữa các
yếu tố tự nhiên như vật lý, sinh học, hoá học tồn tại khách quan, có
trước con người. Chính vì vậy cái đẹp thường được coi là cái “tính có tỷ
lệ”, “sự cân xứng”, “sự hài hoà” hoặc là sự “thống nhất trong đa dạng”.
Một số nhà mỹ học Anh thế kỷ XVIII cố gắng xác định những dấu hiệu
chung của cái đẹp. Chẳng hạn, như Bớccơ coi cái đẹp có những dấu hiệu
căn bản như: kích thước không lớn của đối tượng, sự nhịp nhàng của hình
dáng, tính chất trình tự trong sự thay đổi hình thức và mầu sắc của sự
vật, hiện tượng. Ngược lại W. Hôga lại cho rằng những đường lượn sóng là
đẹp nhật vì nó uyển chuyển trong sự thay đổi ví như nhưng con sóng, mái
tóc gợi sóng. Theo ông bố cục đẹp nhất là bố cục kim tự tháp, còn trong
điêu khắc hình tượng con người đẹp nhất giống như chữ S, là hình tượng
phổ biến của các vị thần Hy Lạp.
Đáng lưu ý nhất là quan điểm của nhà mỹ học cách mạng dân chủ Nga Tsécnưsépxki. Ông định nghĩa cái đẹp: “Cái đẹp là cuộc sống”.
Khi định nghĩa cái đẹp là cuộc sống thì Tcsépnưsépxki ý nói đến không
chỉ nguồn gốc của cái đẹp nằm trong bản thân hình thức thực tại, trong
cuộc sống, mà ông còn lưu ý rằng, chúng ta chỉ có thể coi một sự vật,
hiện tượng cụ thể là đẹp nếu ở nó, các đặc tính của cuộc sống được biểu
lộ rực rỡ và đầy đủ nhất. Cho nên, theo ông cái đẹp không phải đơn thuần
là một hiện tượng có tính chất sinh học mà trong cái đẹp có mối quan hệ
biện chứng giữa cái có tính sinh vật và cái có tính xã hội, giữa cái
khách quan và cái chủ quan, giữa cái thuộc hiện thực và cái thuộc lý
tưởng. Song hạn chế của ông là ở chỗ, mặc dầu ông có cho rằng con người
và cuộc sống của con người là tiêu chuẩn cao nhất của cái đẹp, nhưng ông
nhìn con người một cách chung chung, phi lịch sử, và không đánh giá
đúng vai trò của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên – xã hội và
chính bản thân con người.
Các
nhà mỹ học duy vật trước XIX đã tách rời tính lịch sử cụ thể của các
hiện tượng thẩm mỹ của cái đẹp khi họ đi tìm bản chất của cái đẹp ở mối
quan hệ nội tại giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành của sự vật hiện
tuợng trong khi lẽ ra phải tìm cái đẹp, cũng như mọi hiện tượng thẩm mỹ
khác, ở mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng với xã hội.
Trước
khi có loài người, thì đã có sự tồn tại khách quan của các sự vật, hiện
tượng, hệ thống vật chất trong tính vô tận và vĩnh viễn của nó. Tất cả
các hiện tượng tự nhiên ấy đều có những thuộc tính đa dạng, phong phú và
chúng không phải vì có loài người hay không có loài người mà thay đổi
cấu trúc tự nhiên của nó.
Trải
qua một quá trình lâu dài, thông qua lao động con người phát hiện ra
những thuộc tính thẩm mỹ của sự vật hiện tượng và đồng hoá các thuộc
tính ấy trong đời sống thẩm mỹ. Sự đồng hoá này không chỉ giới hạn ở sự
chiêm nguỡng mà còn bao hàm cả sự sáng tạo thẩm mỹ nói chung của con
người. Chính vì vậy, trước mặt chúng ta giả sử có một bông hoa; nhưng nó
được thể hiện dưới nhiều hình thức và giá trị khác nhau: có thể là bông
hoa sinh học, bông hoa y học, bông hoa thương mại và bông hoa thẩm mỹ.
Trong đó bông hoa thẩm mỹ là giá trị thẩm mỹ của nó có tính xã hội của
con người. Không có con người thì không có cái đẹp của bông hoa và cái
đẹp của bông hoa không phải do mầu đỏ, mầu trắng, mầu vàng, hay sự đắt
giá của nó quyết định mà do ý nghĩa xã hội trong quá trình đồng hoá thẩm
mỹ của con người.
Thứ tư, mỹ học hiện đại, nhất là quan điểm mácxít đã
khắc phục được những thiếu sót trong những quan điểm siêu hình của tư
tưởng mỹ học duy vật trước đó; đồng thời cũng phê phán những quan điểm
không đúng của mỹ học duy tâm về cái đẹp. Ý nghĩa cách mạng trong quan
niệm của mỹ học hiện đại là đã khẳng định bản chất của cái đẹp trong
tính biện chứng và lịch sử – xã hội của nó.
Cái
đẹp là một trong những thuộc tính thẩm mỹ của hiện thực. Nó chính là
một giá trị xã hội mang tính khách quan, rộng rãi của các sự vật, hiện
tượng toàn vẹn, cụ thể, cảm tính được con người xã hội cảm thụ – đánh
giá và sáng tạo. Tiêu chuẩn khách quan của cái đẹp thể hiện ở chỗ những
thuộc tính thẩm mỹ của nó trong các sự vật, hiện tượng đẹp phải phù hợp
với tình cảm – thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ – xã hội của một thời đại
nhất định.
Bản chất của cái đẹp sẽ được làm rõ hơn, khi chúng ta phân tích những dấu hiệu đặc trưng của cái đẹp ở ba phương diện sau:
- Cái đẹp là cái gây nên ở tâm hồn con người – khoái cảm tinh thần.
Khoái cảm là sự thỏa mãn nhu cầu nói chung của con người về các phương
diện khác nhau của đời sống. Từ đó có quan điểm mỹ học đã đồng nhất cái
đẹp với cái gây khoái cảm và họ đi tìm qui luật của cái đẹp trên mặt tâm
sinh lý. Thực ra cái đẹp là cái có khả năng gây khoái cảm nhưng không
đồng nhất với khoái cảm nói chung của con người, mà là khoái cảm tinh
thần – khoái cảm thẩm mỹ. Sự đồng nhất cái đẹp với cái gây khoái cảm dẫn
đến chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên trong mỹ học.
Khoái
cảm lành mạnh về mặt tinh thần chưa phải là khoái cảm thẩm mỹ. Nhiều
hứng thú có thể nảy sinh trong quá trình say mê trong học tập, lao động,
nghiên cứu khoa học; ở đây là niềm vui tinh thần, nhưng không phải là
niềm vui do qui luật của cái đẹp chi phối, vì chúng mới chỉ là cơ sở đầu
tiên của khoái cảm thẩm mỹ. Khoái cảm thẩm mỹ cũng là rung động cảm xúc
biểu hiện ở tình cảm thẩm mỹ. Tình cảm thẩm mỹ hơn bất cứ tình cảm nào,
nó có mối liên hệ sâu xa với lợi ích xã hội – con người với những giá
trị đích thực cho cuộc sống tốt đẹp, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của
những giai cấp, những dân tộc và các thời đại khác nhau.
Khi
cảm thụ, chiêm ngưỡng những hiện tượng đẹp của tự nhiên – xã hội và
nghệ thuật đều tác động nơi tâm hồn con người những phản ứng cảm xúc -
cảm nghĩ tích cực. Trước hết làm cho con người hân hoan, vui sướng và
đồng thời mang khơi dậy nguồn thích thú, đam mê, khát vọng, tìm tòi khám
phá, phát huy năng lực sáng tạo của con người.
- Cái đẹp liên quan chặt chẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đến cái có ích
nhưng nó không đồng nhất với cái có ích. Rõ ràng quan hệ thẩm mỹ đối
với hiện thực không phải là quan hệ trực tiếp tiêu dùng. Môt bức tranh
tĩnh vật vẫn đẹp mặc dầu trái cam, trái quít vẽ trong tranh không thể
đáp ứng nhu cầu ăn uống của con người. Tuy nhiên, cái đẹp và cái có ích
không mâu thuẫn và không tách rời nhau; nhưng đồng nhất cái đẹp với cái
có ích thì rơi vào chủ nghĩa vụ lợi, thực dụng. Cái có ích, lợi ích ẩn
dấu trong cái đẹp và được cái đẹp biểu hiện không phải là lợi ích vật
chất trực tiếp mà lợi ích tinh thần.
Cái
đẹp là cái có ích là nhờ vào ý nghĩa giáo dục của nó xét về nhiều khiá
cạnh khác nhau của đời sống tinh thần con người, như chính trị, đạo đức,
pháp quyền, khoa học, tôn giáo. Cantơ đã tuyên truyền cho chủ nghĩa
hình thức trong nghệ thuật và cho rằng quan điểm “nghệ thuật vị nghệ
thuật” là sai lầm.
- Cái đẹp phải dựa trên cái thật và cái tốt. Từ lâu người ta đã có quan niệm cho rằng chân – thiện – mỹ
là hệ giá trị cao nhất trong đời sống tinh thần của con người cái mà
con người cần phải vươn đến, phải đạt được để khẳng định sự hoàn thiện
và phát triển của con người. Quả thực cái giả không thể đep, cái xấu
không thể đẹp. Một tác phẩm nghệ thuât chỉ đẹp và có giá trị đích thực
khi nó phản ánh sự thật của cuộc sống, giải quyết những yêu cầu, nhiệm
vụ của thực tiễn xã hội. Cái đẹp dựa trên cái thật, cái tốt (khiá cạnh
đạo đức); nhưng có những cái thật cái tốt chưa phải là cái đẹp, chúng
chỉ trở thành đẹp khi hiện ra trong hình tượng cảm tính – cụ thể và là
một giá trị thẩm mỹ được xã hội thừa nhận.
Cái
đẹp giữ vị trí trung tâm của quan hệ thẩm mỹ, dùng để khái quát những
giá trị xã hội tích cực, khách quan, rộng rãi của hiện thực thẩm mỹ,
xuất phát từ thực tiễn, tồn tại dưới dạng hình tượng toàn vẹn, cụ thể –
cảm tính phù hợp với tình cảm, thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ của xã hội
nhất định.
Như
vậy, ngọn nguồn của bản chất vươn tới cái đẹp, sáng tạo theo qui luật
của cái đẹp, đầu tiên nằm trong bản chất tự nhiên, sinh học rồi phát
triển rộng ra xã hội trong tiến trình lịch sử của con người. Có hiểu như
vậy mới khắc phục được tính phiến diện trong sự cảm thụ, đánh giá và
sáng tạo cái đẹp.
2 nhận xét :
Bạn có thể tham khảo thêm tại https://tampacific.com/cac-pham-tru-tham-my-ve-cai-dep-la-gi.html
🥰
Đăng nhận xét