1. Những vấn đề
chung
Thuật ngữ Nho gia (Nho
giáo), bắt nguồn từ chữ "nho". Theo Hán tự,
"nho" là chữ "nhân" đứng cạnh chữ "nhu" mà thành.
Nhân là người, nhu là cần dùng, tức là một hạng người bao giờ cũng cần dùng đến
để giúp cho nhân – quần – xã hội biết đường ăn, ở và hành động cho hợp lẽ trời.
Chữ nhu, nghĩa là chờ đợi, đó là những người tài giỏi, đợi người ta cần đến,
dùng đến đem tài trí của mình mà giúp đời. Nho gia còn được gọi là Nhà nho,
người đã đọc thấu sách thánh hiền, được thiên hạ trọng dụng, dạy bảo cho mọi
người sống hợp luân thường, đạo lý.
Nguồn
gốc, Nho gia xuất hiện rất sớm, lúc
đầu nó chỉ là những tư tưởng và tri thức chuyên học văn chương và lục nghệ[1]
góp phần trị vì đất nước đã có từ hơn ngàn năm trước công nguyên. Đến thời
Khổng Tử, đã được Khổng Tử hệ thống hóa thành học thuyết, còn gọi là Khổng
học.
Khổng Tử (551 – 497 TCN), người sáng lập ra học thuyết
Nho gia người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, hạ lưu song Hoàng
Hà. Khổng Tử sinh tháng 10 năm Canh Tuất (năm thứ 21 đời Chu Linh Vương – 551
TCN). Khi sinh ra, bố mẹ đặt tên là Khâu tên chữ là Trọng Ni (tương truyền cho
rằng bố mẹ Khổng Tử lên núi Ni Khâu cầu tự, mới sinh ra Khổng Tử).
Khổng Tử làm
quan trong triều đình Nhà Lỗ, chức Tư Khấu. Sau ông từ quan đi chu du thiên hạ
đến cuối đời ông về nước Lỗ mở trường dạy học. Ông có tới 3000 môn sinh nhờ ông
dạy dỗ mà thành tài, có địa vị có địa vị trong xã hội, vào bậc cao hiến có 72
người (thất thập nhị hiền). Trong đó có Nhan Hồi và Tăng Sâm là giỏi hơn cả.
Khổng Tử được tôn vinh là “Vạn thế sư biểu” – Người thầy tiêu biểu của muôn
đời.
Tư tưởng cơ bản của triết học nho gia được xác định
với 3 chủ đích:
- Nói về chữ DỊCH, sự biến hoá của vũ trụ, quan hệ đến vận mệnh của con
người; Nguyên nhân của mọi sự biến hóa là do sự giao cảm của âm dương, nước,
lửa, đất, trời. Tất cả sự sinh – hóa của vạn vật trong vũ trụ đều nằm trong chữ
dịch mà ra. Trời trên đất dưới, sáng tối phân biệt, nam nữ khác nhau đó là bất
dịch, để tồn tại và trường tồn luôn có sự trao đổi giữa hai phái đối nhau (âm
dương) đó là giao dịch, sau khi giao nhau nảy sinh ra cái mới đó là biến dịch.
Vậy chữ dịch bao gồm: bất dịch (không thay đổi), giao dịch (trao đổi lẫn nhau)
và biến dịch (biến đổi). Trong đó biến dịch đóng vai trò quan trọng nhất, vì
cốt yếu của dịch là sự biến đổi không ngừng của vạn vật. Xã hội cũng biến đổi
theo qui luật của tự nhiên. Tuy nhiên, sự hạn chế thiếu sót của quan niệm biện
chứng sơ khai trong triết học Trung Hoa Cổ đại là thừa nhận biến đổi có tính
chất tuần hoàn theo chu kỳ khép kín không có sự phát triển.
- Nói về những mối luân thường đạo lý của xã hội;
- Nói về các lễ nghi tôn giáo trong việc tế tự trời – đất; quỷ – thần; tổ
tiên;
Cơ sở lý luận, xuất phát từ KINH DỊCH, đó là sự hoà hợp giữa đạo trời và đạo người
trong tam tài: THIÊN – ĐỊA – NHÂN (thiên thời - địa lợi – nhân hoà), thì con
người là trung gian, người là đức của trời đất (tính trời)[2],
nơi giao nhau của âm dương; trời đất có qui luật của trời đất (đạo trời), con
người thể hiện thiên mệnh, thiên lý nơi hành động của mình trong các quan hệ xã
hội nên cũng có đạo người, rằng đạo người phải hợp với đạo trời hoặc phù hợp
với ĐẠO TRUNG. Đó là tư tưởng trung dung từ trong kinh dịch phản ánh lẽ tự
nhiên trong sự biến hoá của trời đất, có trước – sau, trên – dưới, trong –
ngoài, không thiên lệch, thái hoá, bất cập. Trung dung chính là việc nhận thức,
vận dụng các qui luật của tạo hoá trong hoạt động nói chung của con người.
Chữ Thiên, Thiên mệnh, Thiên lý trong quan điểm của Khổng Tử được hiểu là
nguyên lý tối cao, ngôi vị tối cao được giải thích với 5 nghĩa:
- Thiên là
trời đối lại với địa là đất (Thiên địa vạn vật – âm dương, ngũ hành);
- Ngôi vị tối
cao, là cai quản mọi vật (Hoàng thiên thượng đế);
- Nguyên lý
tối cao, lý giải mọi vật, mọi việc (Thiên mệnh chi vị tính);
- Định mệnh
chi phối con người(Hành sự tại nhân - Thành bại tại thiên);
- Thiên nhiên,
giới tự nhiên, lẽ tự nhiên, ban tính tự nhiên;
Những người sáng lập: Khổng Tử (551 – 479) được coi là người sáng lập ra nho gia, sau đó được
Mạnh Tử (372 – 298, đã kế thừa và phát triển quan điểm duy tâm của Khổng Tử) và
Tuân Tử (315 – 230, phát triển những tư tưởng duy vật trong triết học của Khổng
Tử) phát triển thêm; nhưng chủ yếu vẫn là tư tưởng của Khổng Tử.
Tác phẩm kinh điển (2 bộ – Tứ Thư và Ngũ kinh
- Bộ Tứ Thư
(1). Đại học: Nguyên văn của Khổng Tử gồm 205 chữ do Tăng Tử chép lại và
chú giải. Nội dung chính là tu thân – xử thế sao cho nhân đạo phù hợp với thiên
đạo. Đó là tư tưởng tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ.
(2). Trung dung: Sách triết lý phổ thông, 33 chương do Tử Tư cháu của
Khổng Tử chép lại. Triết lý hành động đề cao trung dung và biết chờ thời.
(3). Luận ngữ: Lời giảng của Khổng Tử do các môn đồ ghi chép lại, gồm 10
quyển, 20 chương.
(4). Mạnh Tử: 7 quyển, 14 chương, ghi những lời chú giải của Mạnh Tử để
làm sáng tỏ học thuyết của Khổng Tử. Ba nội dung chính là tâm học (tính thiện),
chính trị học (nhân ái), công đức Mạnh Tử.
- Bộ Ngũ kinh[3].
(1) Kinh Thi: Sưu tầm những bài
ca dao, phong dao từ thời thượng cổ đến thời Chu Bình Vương (770 trước công
nguyên). Gồm 300 thiên, chia làm 3 phần: Phong (phong tục các nước); Nhã (việc
nhà Chu); Tụng (dùng trong việc tế lễ).
(2). Kinh Thư: 28 chương, ghi chép những lời dạy, các thệ, mệnh của các
lãnh chúa, hiền thân từ Nghiêu, Thuấn đến Đông Chu. Đây là sử liệu quý giá về
quá trình diễn biến của dân tộc Trung Hoa.
(3). Kinh Dịch: Sách viết vễ lẽ biến hoá của trời đất, vạn vật xét đoán
hoa – phúc – thành – suy của đời người. Sách gồm 2 quyển: Kinh gồm 2 quyển có 8
quẻ lớn, 64 quẻ kép, 284 hào… Truyện gồm 10 thiên lý giải các lẽ biến dịch
huyền ảo của tạo hoá.
(4). Kinh Lễ: Ghi chép lễ nghi, biểu lộ tình cảm tốt, tiết chế dục tình,
nuôi dưỡng tình cảm thiêng liêng, phân chia trật tự, thang bậc xã hội. Gồn ba
phần: Nghi lễ (quan hôn tang lễ); Chu Lễ (nghi lễ nhà Chu); Lễ ký (ý nghĩa các
nghi lễ). Hai phần đầu đã bị thất lạc, chỉ còn phần Lễ ký.
(5). Kinh Xuân Thu: Tương truyền do chính Khổng Tử biên soạn. Đó là bộ sử
thời Đông Chu. Vừa có tính biên niên sử vừa có tính triết lý chính trị vì có
những lời chú giải và phê phán của Khổng Tử. Và cuốn này ông viết: “Thiên hạ
biết tới ta là do Kinh Xuân Thu, thiên hạ kết tội ta cũng do Kinh Xuân Thu
2. Những tư
tưởng triết học cơ bản
Nho gia là một học thuyết đạo đức – chính trị xã hội dạy về các hành xử
của một “Chính nhân quân tử” trong xã hội, tức là cách người quân tử tổ chức,
cai trị xã hội. Nho gia lấy việc tạo sự ổn định và sự phát triển làm trọng bằng
cách sử dụng đường lối Đức trị và Lễ trị đã có từ thời Nhà Chu. Để xây dựng
đường lối “Đức trị” và “Lễ trị” Khổng tử đã xây dựng học thuyết: Nhân – Lễ –
Chính danh. Đây là ba phạm trù quan trọng nhất trong học thuyết của Khổng tử.
Nhân là nội dung, Lễ là hình thức còn Chính danh là con đường đạt đến điều nhân
a. Thuyết về “Nhân”
Nhân là nguyên lý đạo đức cơ bản qui định bản tính con người thể hiện
việc quan hệ giữa người và người. Nhân có thể được xét theo hai khía cạnh:
Thứ nhất, về mặt thể, nhân là nhân tính, - cái tính tự nhiên trời cho, khiến con
người khác với con vật “nhân giả, nhân giã”, người thực hiện được tính nhân thì
mới thức là người. Nhưng nhân là nhân tính không chỉ thể hiện trong mỗi cá nhân
mà còn thể hiện ở tính cách nhân loại “Đại đồng”, theo nghĩa “Tứ hải giai huynh
đệ”. Hơn nữa, nhân là một trong Tam tài “Thiên – Địa – Nhân” (thiên thời – địa
lợi – nhân hoà). Như vậy, biết được tính nhân, thì biết được tính người, biết
được tính vạn vật, biết được lẽ sinh trường biến hoá của trời đất của con
người.
Thứ hai, về mặt dụng – nhân là lòng thương người, là sửa mình theo lễ, hạn chế
dục vọng, ích kỷ, hành động theo trật tự lễ nghi đạo đức. Muốn làm điều tốt và
làm điều tốt cho người khác, rằng: “Điều gì muốn thành công cho mình, thì nên
giúp người khác thành công”; “Mình lập thân bằng cách giúp người lập thân”…
Nhân là phạm trù cao nhất của luân lý, đạo đức, là phạm trù trung tâm
trong học thuyết đạo đức – chính trị của nho gia. Nhân tùy thuộc vào phẩm hạnh,
năng lực, hoàn cảnh mà thể hiện. Trong xã hội luôn tồn tại hai hạng người đối
lập nhau: quân tử – tiểu nhân về chính trị, luân lý, đạo đức: “Kẻ quân tử bất
nhân thì cũng có, nhưng chưa bao giờ lại có kẻ tiểu nhân lại có nhân cả”.
Mẫu người quân tử là người đã thực hiện được nhân tính (lúc đầu quân chi
tử chỉ lối xưng hô của giai cấp thống trị, qúy tộc), đã minh minh đức (đức sáng
ngời), là mẫu người lý tưởng của triết lý nho giáo, trong đó phải nó đến luân –
thường đạo lý – đạo làm người.
(1). Ngũ luân (vua – tôi; cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn – bè).
Trong đó có ba mối quan hệ giường cột được gọi là Tam cương và tương ứng với nó
là các phạm trù Trung – Hiếu – Nghĩa. Mỗi cặp của một luân lại có trách nhiệm
bổn phận tương ứng.
- Vua lấy lễ mà sai khiến bề tôi; tôi lấy trung mà thờ vua;
- Cha phải nhân từ, con phải hiếu thảo, cung kính;
- Em phải biết kính nhường anh, anh phải biết thương yêu em đùm bọc lấy
em;
- Eạn bè phải biết giúp đỡ lẫn nhau;
(2). Ngũ thường (nhân – lễ – nghĩa – trí – tín), 5
con đường này đưa tới sự an vui, phồn thịnh và trật tự xã hội.
- Nhân là lòng thương yêu người, giúp người thực
hiện nhân tính nơi họ;
- Lễ là tôn trọng lẫn nhau, cung kính đối đãi…
- Nghĩa là lòng biết ơn, không biết báo ơn thì không
biết đạo làm người, hơn thế phải lấy đức bao dung lấy lòng ngay thẳng báo với
oán thù. Lấy vị nghĩa đối lại vị lợi; “vị lợi chỉ gây ra thù oán, chính vị
nghĩa làm ra vị lợi”.
- Trí là nhận biết ý nghĩa tam cương, ngũ thường,
biết phải nói, phải làm trong đời sống đạo đức – xã hội;
- Tín là giữ lời nói, trung tín, trung thành, ai
cũng phải giữ tín;
Người quân tử là người phải thực hiện đúng đạo làm
người được thể hiện trong ngũ luân, ngũ thường nhưng ngoài ra còn có 9 tiêu
chuẩn:
1.
Khi nhìn phải nhìn cho minh bạch;
2.
Khi nghe phải nghe cho rõ ràng;
3.
Sắc mặt phải luôn ôn hoà;
4.
Tướng mạo phải trang nghiêm;
5.
Nói năng trung thực;
6.
Làm việc phải trọng sự kính nể;
7.
Điều gì nghi ngờ phải hỏi cho rõ;
8.
Khi tức giận phai nghĩ đến hậu quả;
9.
Khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa.
Thực chất, Nho gia là một học thuyết đạo đức, chính
trị - xã hội. Để làm được điều đó, điều cốt lõi là đào tạo cho được những người
cai trị kiểu mẫu – mẫu người lý tưởng – người quân tử. Ngoài 9 tiêu chuẩn ở
trên người quân tử cần 3 điều quan trọng khác:
1. Có đức nhân thì chẳng việc gì phải lo buồn;
2. Có đức trí chẳng bao giờ nhầm lẫn;
3. Có đức dũng thì chẳng bao giờ kinh sợ.
Với
người làm chính trị, trên chính trường cần có 5 điều:
1. Kính dân;
2. Khoan dung, độ lượng;
3. Giữ lòng tin;
4. Mẫn cán;
5. Đem lòng nhân ái đối xử với dân.
Với quân vương trị vì đất nước:
1. Kính sự: Chăm lo đến việc công;
2. Nhi tín: Giữ lòng tin với dân;
3. Tiết dụng: Tiết kiệm
b.
Thuyết về “Lễ”
"Lễ" đóng vai trò quan trọng nhất trong đời sống đạo đức và đời
sống chính trị. Lễ theo quan niệm của Khổng Tử vừa là nghi lễ vừa là tế lễ, vừa
là thể chế chính trị vừa là qui phạm đạo đức. Theo các nghĩa rộng chữ lễ đã
định ở trên, thì tác dụng của lễ có thể chia ra làm bốn chủ đích như: Là để hàm
dưỡng tính tình; là để giữ những tình cảm cho thích hợp đạo trung; là định lẽ
phải trái và là tiết chế cái thường tình của con người.
Như vậy, lễ là sự tôn trọng lẫn nhau, ý nghĩa sâu xa của chữ lễ là cách
đối nhân xử thế trong đạo làm người, trong đó là cách đối xử kính cẩn với người
khác và hàm dưỡng tinh thần cho chính mình. Khổng tử nói: “Điều gì không phải
thì đừng nhìn, không phải lễ thì đừng nghe, không phải lễ thì đừng nói, không
phải lễ thì đừng làm”.
Trong nho gia, Nhân và Lễ không tách rời nhau, chúng có quan hệ mật thiết
với nhau. Nhân là nội dung, lễ là hình thức, lễ biểu hiện của nhân. Vì vậy,
không thể người có tính nhân mà vô lễ được. Khổng tử nói: “Một ngày biết nén
mình theo lễ thì thiên hạ sẽ quay mình về nhân vậy”.
Vị trí và công dụng của lễ trong đời sống xã hội.
(1). Lễ hàm dưỡng tính
tình.
Nguyên Khổng giáo vốn là cái trọng tình cảm, cho nhân sự đều bởi tình cảm
mà sinh ra. Nên việc gây dựng tình cảm tốt là gây dựng cái gốc của đạo nhân.
Nhưng quan niệm về lễ cũng có sự thay đổi và phát triển có tính lịch sử. Cái
nghĩa tối cổ của chữ lễ thuộc về việc tế tự – lễ bao hàm đạo đức – tập quán –
lễ nghi trong mọi hành vi đạo đức của con người. Vậy có thể hiểu hành xử theo
lễ tự nó biểu đạt hành vi đạo đức lấy cái thiện tâm làm gốc trong cách đối nhân
xử thế và có trọng lễ mới giữ gìn được tôn ti trật tự, cũng như muốn giữ lễ
phải trau dồi đạo đức. Bởi lẽ, lễ là môi trường tốt nhất nuôi dưỡng đạo đức
hướng mọi hành vi của con người theo đạo đức - tập quán – lễ nghi…
(2). Lễ giữ tình cảm cho
thích hợp với đạo trung.
Nguyên Khổng giáo cho rằng xây dựng tình cảm tốt của con người là điều
cốt yếu, nhưng tình cảm theo thói quen tâm lý thường tự do, bộc phát làm hành
vi của con người sai lệch, thái hoá, bất cập. Cho nên phải dùng lễ để điều tiết
hành vi của con người cho có chừng mực, để lúc nào nó cũng phù hợp với đạo
trung. Phù hợp với đạo trung là hành theo lễ lấy khuôn phép của lễ theo định
chế của lễ sẽ đưa hành vi của con người vào mức độ phù hợp với mọi hoàn cảnh
đang diễn ra trong cuộc sống, “Giấy rách phải giữ lấy lề”. “Đói cho sạch”,
“rách cho thơm”
(3). Lễ định lẽ phải trái,
tình thân – sơ và trật tự trên dưới cho phân minh.
Nguyên Khổng giáo dùng lễ về phuơng diện phân tôn ti trật tự, tức phép
tắc để tổ chức luân lý ở trong gia đình, xã hội. Bởi vậy có thể hiểu lễ là mô
phạm của luân lý. Trong các mối quan hệ xã hội, mỗi con người đều có danh phận
với vai trò vị trí khác nhau, có cách thức quan hệ khác nhau nên coi lễ như một
chuẩn mực để định thức cho các mối quan hệ xã hội đó, khiến cho con người biết
đường ăn ở cho phải đạo. Chẳng hạn, “kính trên nhường dưới”, “kính già mến
trẻ”, hoặc “tôn sư trọng đạo”.
(4). Lễ dùng để tiết chế
cái thường tình của con người.
Nguyên Khổng giáo hiểu theo cái thường tình của con người mà đặt ra văn
vẻ để giữ cho con người biết điều phải trái tránh điều sai quấy. Nên có thể
hiểu lễ còn thể hiện tri thức của con người. Bởi lẽ, tri thức thể hiện qua lễ
mới đắc dụng và có khả năng làm cho người khác lĩnh hội, hiểu và vận dụng được.
Âu cũng là cái dụng của lễ làm cho tri thức có ích cho đời, giúp ích cho lễ,
chuyền tải lễ để hợp với đạo trung…
Với bốn chủ đích và công dụng của lễ và mối quan hệ giữa chúng đã khẳng
định trong cái nghĩa rộng của chữ lễ có hàm cái tính pháp luật, nhưng lễ thì
thiên về cái qui củ tích cực, mà pháp luật thì thiên trọng về cái cấm chế tiêu
cực. Lễ thì dạy cho người ta nên làm điều gì và không nên làm điều gì; còn pháp
luật thì cấm không cho làm những việc gì, hễ làm thì phải tội... Dùng lễ lợi
hơn là có thể ngăn cấm được việc chưa xảy ra, mà dùng pháp luật thì chỉ để trị
cái việc đã có rồi, bởi vậy Thánh nhân chỉ trong lễ, chứ không trọng hình.
c. Thuyết chính danh
Khổng tử cho rằng thiên hạ bị rối loạn vì vua không ra vua, tôi không ra
tôi, cha không ra cha, con không ra con, chồng không ra chồng, vợ không ra vợ…
Từ đó ông đưa ra học thuyết “Chính danh định phận” làm căn bản cho việc trị
quốc.
Cơ sở lý luận của học thuyết chính danh cũng xuất
phát nguyên lý của kinh dịch, bao gồm: DỊCH – TƯỢNG – TỪ.
Dịch là sự biến dịch trong vũ trụ. Tượng là khuôn mẫu, là nguồn gốc cho mọi vật. Đó là ý tượng (là ý
niêm làm khuôn mẫu cho cho các vật cụ thể của vũ trụ) “Tại thiên thành tượng,
tại địa thành hình”. Từ là ý niệm chỉ
chỉ thể hiện bằng một từ, một tên gọi, đó chính là bản tính của sự vật. Cho nên,
vua phải ra vua, tôi phải ra tôi. Vua dùng lễ để hành động với bản tính được
thể hiện bằng ý niệm, tức là bằng tên gọi: Vua – đạo làm vua.
Chính danh là Danh
(tên gọi, chức vụ, địa vị, thứ bậc…) và Phận
(phận sự, nghĩa vụ, quyền lợi) phải phù hợp với nhau. Danh không phù hợp là
loạn Danh. Danh và phận của một người trước hết do những mối quan hệ xã hội qui
định (ngũ luân và ngũ thường). Để chính Danh, nho gia không dùng pháp trị mà
dùng đức trị, là dùng luân lý, đạo đức điều hành xã hội. Ý nghĩa sâu xa của
chính danh thường thể hiện ơ mặt dụng với ba khía cạnh:
- Trước hết,
là phân biệt cho đúng tên gọi. Mỗi sự vật cũng như con người phải thể hiện đúng
bản tính của mình, mỗi cái tên bao hàm thái độ, trách nhiệm, bổn phận… để thực
hiện bản tính vốn có của nó. Khổng Tử nó: “Nếu danh không chính thì ngôn không
thuận, lời nói không thuận tất việc chẳng thành”.
- Thứ hai,
phân biệt cho đúng danh phận, ngôi vị. Không Tử nói: “Trên chưa chính ngôi,
dưới không lễ độ”…
- Thứ ba,
danh mang tính phê phán khẳng định chân lý, phân biệt đúng sai, tốt, xấu…
Kết luận: Toàn
bộ các thuyết Nhân, Lễ, Chính danh của Khổng Tử (Nho gia) nhằm một mục đích là
phục vụ đường lối chính trị (đức trị, lễ trị). Ông cho rằng làm chính trị tức
là: “Chỉnh sửa xã hội từ hỗn loạn trở nên ổn định”. Muốn được như vậy, trước
hết người cầm quyền phải gương mẫu, lấy cái đức của mình mà cảm hóa mọi người,
khiến mọi người qui thuận. Ông phản đối cai trị bằng pháp chế và hình phạt, làm
như vậy thì dân sợ mà không thuận.
Về tư tưởng
triết học: Khổng Tử (Nho gia) dao động từ chủ nghĩa duy vật và duy tâm. Ông
không quan tâm đến việc giải thích thế giới, không chú ý nhiều đến trời – đất,
quỷ thần. Ông cho rằng trời chẳng qua chỉ là giới tự nhiên. Đối với quỷ thần,
Khổng Tử cho rằng: “Chưa có thể thờ người thì làm sao thờ được ma”, “Sống cũng
chưa biết được thì làm sao biết được chết”. Vấn đề này, Khổng Tử chỉ đưa ra
những ý kiến lấp lửng, mơ hồ, không dứt khoát. Hơn nữa, trong những phần nghị
luận của mình, ông nói đến “trời”, “mệnh trời”, nhiều khi được hiểu như là qui
luật, là trật tự tự nhiên hơn là ám chỉ quyền lực tối thượng của “Trời”, “Mệnh
trời”. Cố nhiên, trong quan niệm về “Thiên mệnh”, nhiều khi cũng được Khổng tử
dùng để chỉ một lực lượng siêu nhiên (khách quan), thần bí toàn năng, chi phối
đời sống con người.
Tư tưởng giáo
dục của Khổng Tử (Nho gia) có nhiều quan niệm tích cực chú ý cả về ba phương
diện: đạo đức, kiến thức và thực tiễn,
trong đó đạo đức có vai trò quan trọng nhất. Phương châm giáo dục của nho gia
là: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Khổng Tử khẳng định học tập là
tiền đề quan trọng của việc giáo dục. Ông không chủ trương phân biệt giàu
nghèo, đó cũng là tư tưởng tiến bộ, nó phá bỏ ranh giới đẳng cấp trong giáo
dục…
3. Nho giáo Việt Nam
Sự du nhập nho giáo và sự ảnh hưởng của nó có ý nghĩa rất lớn trong hệ
thống chính trị – văn hoá truyền thống Việt Nam xét cả mặt tích cực và hạn chế
của nó.
Nho giáo với hệ thống tư tưởng, chính trị của mình
đã giúp xây dựng các nhà nước trung ương tập quyền mạnh và một hệ thống quản lý
xã hội chặt chẽ… Nho giáo đã đào tạo các tầng lớp Nho sĩ Việt Nam yêu nước, tài
năng kiệt xuất phục vụ cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc và phát triển kinh
tế, văn hoá xã hội.
Nho giáo hướng quảng đại quần chúng nhân dân vào
việc giáo dục, tu dưỡng đạo đức theo luân thường đạo lý, giúp xây dựng các quan
hệ xã hội có tính ổn định, bền chặt, có tôn ti trật tự… nhất là quan hệ gia
đình. Nho giáo giúp xây dựng tinh thần trung quân ái quốc nhưng không mù quáng
trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu, coi trọng vận mệnh quốc gia cao hơn
các quan hệ xã hội khác.
Nho giáo với các nguyên lý chính trị – đạo đức xã
hội của nó đã đáp ứng được các yêu cầu đương thời. Lý thuyết “Tam cương”, “Ngũ
thường” của nho giáo tạo cho xã hội một ý thức trật tự, kỷ cương, phù hợp với
chế độ phong kiến. Con đường danh – lợi của nho giáo mở rộng về con đường học
vấn để làm quan để phò vua và phụng sự đất nước… Những nguyên tắc đối nhân xử
thế uyển chuyển đã chỉ ra con đuờng thoát khi thất thế, làm yên tâm mọi người
trên bước đường hoạn lộ. Do vậy, kẻ sĩ đều chọn con đường đạo Nho và luôn đề
cao đạo làm người của Đạo Nho.
Trên cơ sở các nguyên lý cơ bản của đạo Nho thể hiện
trong các tác phẩm kinh điển nhưng sự lựa chọn và giải thích của mỗi người có
khác nhau. Các nhà nho yêu nước thấm
nhuần chủ nghĩa nhân đạo như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thời Nhiệm…
thì thường phát huy những khái niệm nào đó của nhà Nho có sức diễn đạt được nội
dung yêu nước, thương dân, yêu con người và tin ở năng lực của con người. Các
nhà Nho khác thì chú trọng đến tôn ti, trật tự và đẳng cấp khắc nghiệt của Nho
giáo. Do vậy, cũng đều là các nhà Nho, nhưng giữa họ có những lập trường triết
học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
- Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp, bài
xích thương nghiệp, có tính bảo thủ không chịu tiếp nhận những cái mới có tính
ưu việt hơn.
- Ngày nay, tuy không còn ảnh hưởng nhiều đến đời
sống chính trị hàng ngày, nhưng tư tưởng nho giáo tác động rất lớn trong đời
sống văn hoá truyền thống của con người Việt Nam. Sự ảnh hưởng đó không chỉ thể
hiện về mặt tâm linh, phong tục tập quán mà còn trên những tư tưởng Nhân – Lễ –
Nghĩa… trong các quan hệ xã hội của con
người Việt Nam hiện nay. Nhất là tư tưởng trong giáo dục, đào tạo con người.
“Tiên học lễ hậu học văn”
- “Tiên học
lễ hậu học văn”, đó là cách sắp xếp tiên hậu là định qui trình sau trước cho
việc dạy và việc học, chứ qui phạm giáo dục xưa không có ý trọng đao đức hơn
tài chí. Nho giáo truyền thống Việt Nam không đồng nhất với nho giáo Trung Quốc
dù nó là sự du nhập của nho giáo Trung Quốc. Bởi vậy, “Tiên học lễ hậu học văn”
là một giá trị truyền thống nho giáo Việt Nam mang tính nhân dân nhiều hơn so
với định chế giáo dục của bản thân các triều đại phong kiến Việt Nam.
Tiên học lễ hậu học văn, giá trị đạo đức nho giáo
truyền thống Việt Nam, không phải coi lễ là yếu, thứ yếu so với văn mà ông cha
ta coi lễ là cơ sở để tiếp thu văn, có học tập rèn luyện lễ nghĩa thì mới có
khả năng tiếp thu được tri thức. Ngược lại khi đã có tri thức phải có lễ mới
thể hiện đức của con người trong việc vận dụng tri thức vào cuộc sống. Bởi lẽ,
đạo đức truyền thống của nho giáo Việt Nam không đồng nhất với nho giáo truyền
thống Trung Quốc; tuy rằng đạo đức nho giáo truyền thống Việt Nam có coi trọng
việc tu dưỡng cá nhân. Nhưng tinh thần yêu nước, tương ái tương thân, trọng
nghĩa… luôn đòi hỏi ở mỗi cá nhân với sự thống nhất giữa đức và tài lại là tính
cách đặc thù của đạo đức nho giáo truyền thống Việt Nam vì lợi ích của quốc
gia, của dân tộc và của nhân dân. Như vậy, tiên học lễ hậu học văn mới thuận
qui trình đào tạo con người.
Vấn đề lễ ngày nay. Có nhiều quan điểm cho rằng chữ
lễ ngày nay khác với chữ lễ ngày xưa, điều đó có thể đúng nhưng hiểu như vậy
thì chưa thật đầy đủ. Cố nhiên, nghi thức của lễ ngày nay phải khác với nghi
thức của lễ ngày xưa, dù rằng vị trí và công dụng của lễ thì muôn đời vẫn thế.
Quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, thực hiện
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đang tác động mạnh mẽ đến đời sống
tinh thần con người Việt Nam. Bên cạnh việc tạo ra những nhân tố mới cho sự
phát triển xã hội theo hướng tích cực, kinh tế thị trường cũng gây ra những
hiện tượng thiếu lành mạnh trong tư tuởng, đạo đức, lối sống… từ thành thị tới
nông thôn đã làm xấu đi nhiều mặt của lối sống vốn bình dị, khiêm tốn, đúng mực
và giàu lòng nhân hậu, tình nghĩa như một tính cách, một nét đẹp truyền thống
Việt Nam. Và chưa bao giờ, truyền thống Việt Nam với tập tục “cá nhân, gia
đình, làng và nước… lại đứng trước sự biến đổi và thách thức lớn như hiện nay.
Ở một mức độ cao hơn, thay vì lý tưởng sống cao cả, lối sống “mình vì mọi
người” phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội, thì một bộ phận nhân dân hướng vào
những lợi ích cá nhân thực dụng: vì tiền, vị kỷ, trịch thượng, trưởng giả,
buông thả…
Giao lưu văn hóa với nước ngoài của nước ta đang
từng bước được mở rộng, nhưng giao lưu văn hóa luôn đặt cho chúng ta phải biết
giữ gìn và kế thừa giá trị tinh thần truyền thống, sự hiện đại hóa và phát
triển những giá trị truyền thống của dân tộc, những giá trị tạo nên bản sắc và
bản lĩnh của dân tộc và của mỗi con người Việt Nam. Điều đó luôn đòi hỏi chúng
ta phải giải quyết một cách tốt nhất những mối quan hệ giữa truyền thống và
hiện đại, dân tộc và quốc tế.
Trong cuộc sống thực tế hiện nay, nếu thiếu chú
trọng dạy lễ nghĩa, giáo dục lễ nghĩa trong gia đình, nhà trường và xã hội thì
một bộ phận thanh thiếu niên không chỉ bất kính đối với cha mẹ mà họ còn coi
thường sự nghiệp của cha anh, khi họ cho rằng không biết chạy đua danh lợi
trong cơ chế thị trường như họ. Và cũng không ít những hạng người coi việc nuôi
nấng, chăm sóc cha mẹ già như một gánh nợ đời. Cái chính không phải họ không
biết lễ nghĩa, tôn ti trật tự trong gia đình mà họ quên lễ là hàm chứa đạo đức
và nuôi dưỡng thiện tâm.
Tôn ti trật tự của xã hội không thể thiếu được sự
điều tiết của pháp luật, mà chúng ta còn hướng đến việc xây dựng một nhà nước
pháp quyền Việt Nam để thực hiện quyền lực của nhà nước là do dân, vì dân và
mọi người sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Nhưng kỷ cương, phép nước
chỉ có thể được tôn trọng khi chúng ta thấm nhuần lễ là mô phạm của luân lý.
Bởi vì, hiện nay một hiện tượng khá phổ biến ở nơi làm việc trong các cơ quan nhà
nước, trong các tổ chức xã hội kể cả trong gia đình hình như thiếu thể thống
trên dưới, thiếu sự tôn trọng lẫn nhau hẳn trên có lẽ chưa chính ngôi, dưới
chưa đức độ. Hơn thế nữa hành vi thiếu văn hoá, bất lịch sự của một bộ phận
thanh thiếu niên ở những nơi công cộng, thực ra họ không hiểu lễ thể hiện tri
thức của con người.
[1] Lục nghệ (sáu nghề: Lễ, Nhạc, Xạ
(bắn cung), Ngự (đánh xe), Thư (viết chữ), Số (tính toán), coi nhẹ những kiến
thức về giới tự nhiên, về lao động sản xuất, chỉ tập trung vào việc đào tạ
những quan chức phục vụ cho vương triều, quý tộc).
[2] Cha
sinh con, trời sinh tính. Trong Phật giáo cũng có tư tưởng đề cao con người:
Nhất Thiên, Nhị địa, duy ngã Độc tôn.
[3] Tương truyền do Khổng Tử “san Thi, dịch Thư, tán Dịch, dịch Lễ, bút Xuân
Thu”, nghĩa là rút gọn kinh Thi, chọn lọc Kinh Thư, giải rộng Kinh dịch, Qui định
Kinh Lễ, sáng tác Kinh Xuân Thu.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét