Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Thứ Sáu, 1 tháng 3, 2013

Nguyên tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

 I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN
1. Phạm trù thực tiễn
Trước triết học Mác, vấn đề thực tiễn đã được đề cập dưới các quan niệm khác nhau. Bêcơn nhà triết học duy vật Anh, người đặt nền móng cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật siêu hình thế ký XVII – XVIII, cho rằng nhận thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân quá, phát hiện và kiểm tra chân lý. Ông được coi là người đầu tiên thấy được vai trò của thực tiễn, của thực nghiệm khoa học trong quá trình nhận thức và hình thành tri thức. Khi đề cao vai trò của tri thức, ông nhấn mạnh nhiệm vụ của triết học là tìm ra con đường nhận thức giới tự nhiên, phải chống lại chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh viện giáo điều.
Trong triết học cổ điển cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX, Phoiơbách, nhà triết học duy vật đã đề cập đến thực tiễn, nhưng đối với ông lại đặt lý luận cao hơn thực tiễn. Ngược lại, Hêghen, nhà triết học duy tâm cho rằng, bằng thực tiễn, chủ thể (con người) tự “nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình quan hệ với thế giới bên ngoài, nhưng ông lại giới hạn thực tiễn ở “ý niệm”, ở hoạt động tư tưởng. Đối với ông, thực tiễn là một “suy lý lôgíc”.
Các nhà triết học duy vật trước Mác, về cơ bản cho rằng, quá trình hành ý thức của con người mang tính thụ động. Do đó, lý luận nhận thức của họ còn hạn chế. Chính vì vậy, Mác đánh giá: “khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbách – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, thực tiễn. Theo đánh giá của Lênin, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa và phát triển những yếu tố hợp lý, khắc phục những hạn chế trong quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó để đưa phạm trù thực vào lý là một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Vì vậy, Lênin nhận xét: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”[1].
Sự phát triển của khoa học thời cận đại, đặc biệt là khoa học thực nghiệm, thực sự là một cách mạng trong nhận thức luận. Theo đó, mỗi chân lý khoa học phải được chứng minh bằng thực nghiệm. Đây được coi là những tiển đề đặt nền tảng cho quan niệm thực tiễn của triết học Mác.
Theo triết học Mác – Lênin, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo (biến đổi) tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
 Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Đó là hoạt động mà con người sáng tạo và sử dụng những công cụ, phương tiện vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhất định để tạo ra những sản phẩm nhằm thoả những nhu cầu nói chung của co người.
Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản:
Hoạt động sản xuất vật chất là quá trình con người sáng tạo ra những công cụ lao động làm biến đổi giới tự nhiên, xã hội và dưới dạng chung nhất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất cần thiết đáp ứng những nhu cầu của đời sống xã hội. Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại vận động và phát triển của xã hội.
Đối lập với quan điểm biện chứng về xã hội, các nhà triết học trước Mác về cơ bản họ đều phủ nhận vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Họ cho rằng, nguyên nhân, động lực, tiêu chuẩn của sự phát triển xã hội đều do sự quyết định của ý thức, tư tưởng hoặc lực lượng siêu nhiên nào đó. Các nhà triết học duy vật trước triết học Mác cũng đã đề cập đến nguyên nhân kinh tế như là nguyên nhân chính của sự phát triển xã hội. Nhưng những quan niệm đó còn mang tính chất siêu hình, phiến diện. Khi họ tuyệt đối hoá một mặt nào đó của xã hội.
 Quan niệm biện chứng về lịch sử của Mác theo như sự đánh giá của Ăngghen: Mác là người đầu tiên phát hiện ra những qui luật của sự phát triển xã hội, tìm ra cái thật giản đơn, trước tiên con người phải ăn, uống, mặc và ở… trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo, v.v... Sản xuất vật chất là một yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội. Mọi người trong xã hội đều có những nhu cầu và làm cách nào đó để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu trên thì tất nhiên con người phải sản xuất, vì sản xuất là điều kiện cho tiêu dùng.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của con người tác động vào xã hội, cải biến các quan hệ xã hội trên cơ sở qui luật vận động và phát triển của xã hội. Theo đó, hoạt động này về cơ bản là hoạt động đấu tranh xã hội, để giải quyết các mâu thuẫn xã hội làm xuất hiện các kiểu nhà nước, các hệ thống chính trị và các thời đại khác nhau.  Hoạt động chính trị - xã hội tác động đến sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội và thực nghiệm khoa học.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, bao gồm thực nghiệm khoa học và thực nghiệm xã hội nhằm cải biến những đối tượng nhất định, theo một mục đích nghiên cứu nhất định. Theo đó, hoạt động thực nghiệm khoa học không đơn giản là chứng minh chân lý, mà quan trọng hơn là định hướng cho sự vận dụng tri thức khoa học trong hoạt động vật chất của con người, để tạo ra sản phẩm nhằm thoả mãn những nhu cầu của con người.
Tính chất lịch sử của hoạt động thực tiễn gắn liền với quá trình hình thành, tồn tại, vận động và phát triển của con người và xã hội. Hoạt động thực tiễn được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và giữa các hình thức đó đều có sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, nhưng luôn được xác định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể.
2. Phạm trù lý luận
Theo quan điểm duy vật biện chứng nhận thức là một quá trình biện chứng từ nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức lý luận. Trong đó, “Lý luận đã được khái quát trong ý thức của con người, là toàn bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgíc của các khái niệm cái lôgíc khách quan của sự vật”[2].
Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những qui luật của sự vật hiện tượng trong hiện thực. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”[3].
Quá trình hình thánh lý luận, con người phải thông qua nhận thức kinh nghiệm.
Nhận thức kinh nghiệm là quá trình nhận thức bởi sự thu nhận từ quan sát và thí nghiệm, nó tạo thành tri thức kinh nghiệm. Có hai loại tri thức kinh nghiệm: tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu được từ những quan sát hàng ngày và tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện, miêu tả, phân loại các dữ kiện thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm, nó vừa là sự phản ánh trực tiếp, nhưng cũng có tính trừu tượng và khái quát nhất định. Tri thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của con người, nhưng nó còn hạn chế, cần phải tổng kết, khái quát những tri thức kinh nghiệm nhất định để có thể phát triển thanh tri thức lý luận.
Nhận thức lý luận, là sự phát triển tất yếu của quá trình nhận thức, nó là trình độ cao hơn về chất so với nhận thức kinh nghiệm. Cho nên, nó là tri thức lý luận là tri thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm, nhưng nó không hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối mà lý luận có thể mang tính vượt trước những dữ kiện kinh nghiệm. Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó mang lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về qui luật của các sự vật, hiện tượng. Đặc biệt một khi lý luận xâm nhập vào thực tiễn hoat động của quần chúng thì nó trở thành sức mạnh vật chất.
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy theo đối tượng phản ánh và vai trò phương pháp luận của nó. Có thể phân chia lý luận ngành và lý luận triết học.
Lý luận ngành là lý luận khái quát qui luật hình thành và phát triển của một ngành. Nó là tri thức, phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của ngành đó, như lý luận pháp quyền, chính trị, đạo đức, nghệ thuật, v.v… Theo nghĩa đó, khi ngihên cứu nghệ thuật học phải nghiên cứu lý luận nghệ thuật. Trong đó có nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, văn học, v.v…
Lý luận triết học là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và thực tiễn của con người.
Vai trò của lý luận thể hiện qua hai chức năng cơ bản, - đó là chức năng phản ánh và chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực, là phản ánh bản chất và qui luật của hiện thực dưới các hình thức khác nhau để hình thành phương pháp luận nhận thức và biến biến đội hiện thực bằng hoạt động thực tiễn,
II. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình thành, phát triển từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Nguyên tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, trước hết, là khẳng định thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận.
Thực tiễn là cơ sở lý luận. Thông qua thực tiễn được thể hiện ở hoạt động sản xuất vật chất, chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa học nhận thức của con người được hình thành và phát triển. Đó cũng là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên, xã hội làm giới tự nhiên, xã hội bộc lộ những thuộc tính, những tính qui luật để cho con người nhận thức. Cố nhiên, ban đầu con người chỉ thu nhận được những tài liệu cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá…để phản ánh bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận. Theo đó, thực tiễn là cơ sở của nhận thức của lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với các cá nhân và và cá thế hệ người, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều có nguồn gốc và bị quyết định bởi thực tiễn.
Thực tiễn là động lực của lý luận. Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới con người còn biến đổi bản thân mình, phát triển năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng có khả năng nhận thức, khám phá bí mật của thế giới, làm phong phú, sâu sắc hơn tri thức của mình về thế giới. Cố nhiên, thực tiễn luôn đề ra nhu cầu nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Các ngành khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa học của xã hội.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Nhận thức, lý luận không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản là giải thích về thế giới về con người mà phải phục vụ thực tiễn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Sự ra đời của các ngành khoa học và hệ thống lý luận của nó chỉ có ý nghĩa thật sự khi tri thức của khoa học được vận dụng vào thực tiễn, biến đổi giới tự nhiên xã hội và bản thân con người.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội với ở Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề mới và phức tạp trong việc chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, vận động theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu những vấn đề đó. Theo đó, vấn đề xã hội hoá giáo dục, y tế, văn hoá và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở việt Nam cũng đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu, để khẳng định tính tất yếu của quá trình đó trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội hiện nay ở Việt Nam.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Vì vậy, C.Mác đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt đến chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vân đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người đã chứng minh chân lý”[4]. Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức của nhân loại; những những lý luận nào chưa phù hợp thực tiễn sẽ tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại.
Cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện thứng; tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối và tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn như một quá trình thống nhất của các giai đoạn của tính lịch sử cụ thể của nó. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tương đối vì thực tiễn có nhiều giai đoạn, tính lịch sử cụ thế phát triển khác nhau. Do đó, những lý luận mới chỉ khái quát một giai đoạn lịch sử cụ thể náo đó của thực tiễn, thì lý luận đó có thể cơ bản là đúng những vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định nên cần phải bổ sung và phát triển thêm khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó.
Tiêu chuẩn thực tiễn không thể coi những tri thức của con người là chân lý tuệt đích cuối cùng mà chân lý chỉ có tính tuyệt đối, tương đối và cụ thể. Bởi trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn thường xuyên được kiểm nghiệm bởi thực tiễn, nó vẫn được điều chỉnh, bổ sung, phát triển va hoàn thiện hơn. Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực thực tiễn đối với chân lý, với lý luận giúp chúng tránh những khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa tương đối.
Nguyên tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không chỉ khẳng định thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận mà yêu cầu là lý luận hình thành, phát triển từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Phân tích vai trò của thực tiễn đối với lý luận yêu cầu chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu  việc nhận thức phải xuất từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực thực tiễn đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn. Quá trình hình thành và phát trỉen của nhận thức tất yếu dẫn đến sự hình thành và phát triển của lý luận. Đó không chỉ là là sự tổng kết khái quát lịch sử nhận thức của con người mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Nhu cầu của thực tiễn xét cho cùng là nhu cầu những tri thức mới và sự vận dụng nó trong hoạt động sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học làm biến đổi hiện thực khách quan nhằm thoả mãn nhu cầu nói chung của con người.
2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận, lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục được bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Nguyên tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không chỉ khẳng định vai trò của thực tiễn đối với lý luận mà còn thấy được vai trò của lý luận có ý nghĩa chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với sự vận động phát triển của tồn tại xã hội, triết học Mác đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện khách quan nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt là tư tưởng khoa học có thể vượt trước tồn tại xã hội. Theo đó, lý luận không chỉ có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, biện pháp thực hiện mà còn có khả năng dự báo xu hướng phát triển, những thành công, những rủi ro, những hạn chế có thể xảy ra trong quá trình hoạt động của con người. Như vậy, lý luận tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Chính vì vậy, C.Mác đã cho rằng: “Vũ khí phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”[5].
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đã chỉ ra những qui luật vận động tất yếu của xã hội loài người nói chung, của xã hội tư bản nói riêng và tính tất yếu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết đó trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý luận sâu sắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác là cơ sở lý luận về thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học cho các ngành khoa học xã hội nghiên cứu xã hội như là một quá trình lịch sử tự nhiên. Ngày nay, thực tiễn của lịch sử và tri thức về lịch sử của nhân loại đã có nhiều bổ sung và phát triển mới so với khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ra đời. Tuy vậy, những cơ sở khoa học mà họa thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác đã đem đến khoa học xã hội thì vẫn có những giá trị đích thực.
Giá trị của chân lý của lý luận không chỉ mang tính tuyệt đối, tính tương đối mà còn có tính cụ thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích một cách cụ thể mỗi tình hình cụ thể. Nếu vận dụng máy móc, giáo điều kinh viện chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến kết quả của hoạt động thực tiễn.
Sự hình thành và phát triển của lý luận là kết quả nhận thức lâu dài của con người trên cơ sở thực tiễn. Mục đích của lý luận không chỉ là phương pháp, mà còn là định hướng mục tiêu, mô hình và biện pháp giải quyết các mối quan hệ của hoạt động thực tiễn. Hơn nữa, vận dụng lý luận vào thực tiễn và thông qua thực tiễn để tiếp tục bổ sung và phát triển lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, tính năng động và sáng tạo của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Về vấn đề này, Lênin đã nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những ở tính phổ biến, mà cả ở tính hiện thực trực tiếp”[6].
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
1. Lý luận phải ánh nhu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn
Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là sự thể hiện cụ thể tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và đặc biệt tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội nước ta. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những mà nhân loại đã đạt ảndưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”[7].
Vấn đề nghiên cứu để luận chứng khoa học cho lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn đang tiếp tục trong quá trình khái quát những kinh sự nghiệm thực tiễn. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đánh giá: “Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng”[8]. Về vấn đề này, khi đánh giá những thành tự, hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội X, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ kiện đã chỉ rõ: “Công tác nghiên lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu”[9]. Chính vì vậy, vấn đề tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc đối mới đất nước hiện nay là một vấn đề quan trọng.
2. Thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam. Kiên định lập trường đó, các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc đảng Cộng sản Việt nam khẳng định: “Đảng và nhân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[10]. Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống lý luận không chỉ được hình thành trong điều kiện kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản những năm bốn mươi của thế kỷ thứ XIX, mà còn có nguồn gốc lý luận từ triết học Cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, Anh thế kỷ thứ XVIII nửa đầu thế kỷ thứ XIX và sự phát triển của khoa học tự nhiên thế ký thứ XI mà còn được khái quát từ thực tiễn phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới của quần chúng nhân dân lao động phù hợp với thực tiễn của thời đại.
“Tư tưởng hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn vẹn và sâu sắc về những đầ cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”[11].
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải dựa vào khuynh hướng cơ bản của lý luận để bổ sung, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta và xu hướng của thời đại. Vì vậy, khi vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn của cách mạng Việt nam phải quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể, đồng thời, chúng ta cần tiếp thu những thành tựu của tri thức khoa học, nhất là khoa học côn nghệ đối với sự nghiệp đổi mới đất nước để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh.
Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với ý nghĩa bỏ qua chế độ chính trị của chủ nghĩa tư bản. Nhưng trong điều kiện chủ trương một kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhằm phát huy mọi tiềm năng các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa, từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa. Trong đó kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, tức là các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là có sự thống nhất ở mức độ nhất định về mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại những mâu thuẫn nhất định.
 Tương ứng với những mâu thuẫn là sự không đồng nhất về bản chất kinh tế do sự tác động của nhiều hệ thống qui luật kinh tế. Đó là hệ thống các qui luật kinh tế xã hội chủ nghĩa phát sinh trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, hệ thống các qui luật kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và các qui luật kinh tề tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần thì sự quản lý của nhà nước không chỉ bó hẹp trong trong kinh tế quốc doanh mà phải bao quát tất cả các thành phần kinh tế khác, nhằm từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa với tất cả các thành phần kinh tế khác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Trong đó kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, quyết định đối với quá trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể phải thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ, kinh tế tư nhân và gia đình có khả năng phát huy được mọi tiềm năng kinh tế góp phần vào quá trình phát triển kinh tế.
Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Phê phán bệnh (chủ nghĩa kinh nghiệm) kinh nghiệm và bệnh (chủ nghĩa giáo điều) giáo điều
Bệnh (chủ nghĩa kinh nghiệm) kinh nghiệm và bệnh (chủ nghĩa giáo điều) giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
3.1. Bệnh kinh nghiệm (chủ nghĩa kinh nghiệm)
Bệnh kinh nghiệm là sự cường điệu hoặc tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là "chìa khoá vạn năng" trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống đặt ra. Biểu hiện của những người mắc bệnh kinh nghiệm là đề cao kinh nghiệm cảm tính (tri thức khinh nghiệm), coi thường tri thức lý luận, tri thức khoa học, vận dụng kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề thực tiễn một cách máy móc, dẫn đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm thông thường góp phần tạo nên những thành công nhất định, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế truyền thống.
Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và khoa học công nghệ còn thấp. Đó là trực trạng một nền kinh tế truyền thống – nền kinh tế dựa chủ yếu vào kinh nghiệm. Điều đó dẫn đến phong cách tư duy của con người Việt Nam vốn mang đậm nét "tư duy kinh nghiệm". Truyền thống đó, là một trong những nguyên nhân sâu xa của bệnh kinh nghiệm. cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp thực hiện một thời gian dài ở nước ta đã triệt tiêu tính sáng tạo của người lao động và tạo nên tâm lý ỷ lại, bảo thủ, trì trệ làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế xã hội. Hậu quả đó sẽ trở lên nghiêm trọng hơn khi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa đan kết chặt chẽ với bệnh chủ quan duy ý chí.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, một mặt lý luận phải ánh nhu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn, mặt khác thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể.  Hơn nữa phải hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải thấy được mối quan hệ qua lại và sự thống nhất biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận. Phải bám sát thực tiễn, khái quát thực tiễn, khái quát lý luận, xây dựng được chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ lịch sử ở nước ta, nhất là trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
3.2. Bệnh giáo điều (chủ nghĩa giáo điều)
Bệnh giáo điều là sự tuyệt đối hoá tri thức lý luận, tri thức khoa học, coi tri thức đã là chân lý tuyệt đối và vận dụng một cách máy móc những tri thức đó vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không tính đến tính lịch sử - cụ thể. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận. Do đó, dẫn đến hạn chế khả năng áp dụng tri thức một cách linh hoạt, sáng tạo vào cuộc sống và không hiểu được tính biện chứng của quá trình nhận thức cũng như biện chứng của lịch sử xã hội. Trong thực tiễn, đôi khi bệnh giáo điều biểu hiện ở việc áp dụng cái chung vào cái riêng một cách đơn giản, lấy cái phổ biến áp đặt cho cái riêng, cái đặc thù, hoặc áp dụng một lý thuyết, một mô hình chưa được kiểm nghiệm thực sự bởi thực tiễn.
Trước đây chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, bởi coi đó là kiểu mẫu duy nhất mà không tính đến điều kiện đặc thù của Việt Nam. Nhưng khi phát hiện ra sai lầm, chúng ta đã chậm khắc phục, sửa chữa, nên căn bệnh này vẫn còn tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước.  Đó là một trong những nguyên nhân đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế, xã hội những năm tám mươi của thế kỷ XX. Với tinh thần cách mạng khoa học, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới tư duy lý luận được xem là cơ sở. Từ đó đến nay, chúng ta đã có những bước tiên quan trọng trong việc khắc phục các khuynh hướng tư duy sai lẩm, vận dụng một cách khoa học tư duy biện chứng duy vật trong việc giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, vốn là những bệnh đã tồn tại khá lâu dài và những cơ sở nảy sinh ra chúng chưa hoàn toàn mất đi, nên chúng chưa hoàn toàn bị loại trừ. Ở mức độ nào đó, những căn bệnh này vẫn còn ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đổi mới của chúng ta.
Việc ngăn ngừa, khắc phục các căn bệnh nói trên về thực chất phải là quá trình xoá bỏ những nguồn gốc đã sinh ra chúng. Điều đó có nghĩa là phải xoá bỏ tình trạng yếu kém về tư duy lý luận, phát triển tư duy lý luận lên trình độ cao. Muốn vậy, trước hết phải nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật và thông qua đó, không ngừng nâng cao trình độ lý luận, năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn. Từ đó mà tìm ra những giải pháp phù hợp, tránh rập khuôn, máy móc, tránh tuyệt đối hoá các tri thức đã có, tạo khả năng giải quyết đúng đắn những vấn đề do thực tiên đặt ra.


[1]V.I.Lênin Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr. 342 – 343.

[2] Từ điển triết học, Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva, 1986, tr. 342 – 343.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t,8, tr. 497.
[4] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3, tr.10..

[5] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 1, tr.580..
[6] V.I.Lênin Toàn tập, Nxb, Tiến bộ Mátxcơva, 1981, t.29.tr. 230.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 84.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.133.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 179.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 83.
[11] Sd9d, tr. 83 - 84.

0 nhận xét :