Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

Chủ nghĩa duy vật biện chứng - cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học

1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện trong tất cả quan điểm, quan niệm về thế giới, về vị trí, và vai trò của con người đối với thế giới, song đó cũng là quan điểm duy vật về thế giới và quan điểm duy vật về xã hội của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1.1. Quan điểm duy vật về thế giới
Bản chất của thế giới là một vấn đề cơ bản trong lịch sử tư tưởng của triết học. Các trường phái triết học đều có quan điểm khác nhau khi giải thích về bản chất của thế giới. Trong đó, chủ yếu là sự đối lập giữa triết học duy vật và triết học duy tâm.
Các nhà triết học duy vật cho rằng, bản chất của thế giới là vật chất. Ngược lại, các nhà triết học duy tâm lại cho rằng, bản chất của thế giới là tinh thần.
Cố nhiên, quan niệm về thế giới, bản chất của thế giới của các nhà triết học duy vật, - đó là thế giới vật chất, thế giới của các sự vật, hiện tượng vật chất và sự liên hệ giữa chúng tạo thành một chỉnh thể thống nhất là thế giới vật chất; chứ không phải là thế giới của các lực lượng siêu nhiên, thế giới tinh thần như quan niệm của các nhà triết học duy tâm.
Quan niệm bản chất của thế giới là vật chất của các nhà triết học duy vật cũng  không ngừng được bổ sung và phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học va( thực tiễn.
Kế thừa tư tưởng các nhà triết học duy vật và căn cứ vào các thành tựu của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất.
Giữa thế kỷ XIX, sự phát triển của khoa học tự nhiên và các thành tựu của nó, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại những quan điểm siêu hình, duy tâm trong triết học; đồng thời nó tạo ra những tiền đề khách quan cho sự xuất hiện triết học Mác. Đó là qui luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Mâyơ[1], chứng minh rằng cơ học, nhiệt ánh sáng, điện, từ các dạng trong các hình thức vận động khác nhau của vật chất không tách rời nhau, có khả năng chuyển hóa cho nhau. Không có sự sinh ra và mất đi của năng lượng mà chỉ có sự chuyển hóa lẫn nhau từ dạng này sang dạng khác.
Sự phát triển của khoa học sinh học gắn liền với với sự xuất hiện học thuyết tế bào của Slaiden[2] và Svannơ, đã chống lại những quan niệm duy tâm siêu hình về nguồn gốc, về mối quan hệ giữa hình thái thực vật - động vật. Nó xác định được mối liên hệ biện chứng về nguồn gốc lịch sử và các qui luật phát triển của sinh học. Sự xuất hiện học thuyết Đácuyn[3] đã xác định sự tiến hóa của sinh học. Thuyết tiến hóa của Đácuyn đã bác bỏ quan niệm duy tâm, siêu hình về sự bất biến trong sinh học, và ông cũng là người đầu tiên xác định tính biến dị, di truyền giữa các loài.
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên giữa thế kỷ XIX đã nêu được mối liên hệ biện chứng, sự biến đổi chuyển hóa về mặt chất lượng trong các lĩnh vực khác nhau của giới tự nhiên. Khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên Mác - Ăngghen đã phát triển và cụ thể hóa những vấn đề triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng để giải thích tính thống nhất vật chất của thế giới.
Tính thống nhất vật chất của thế giới được thể hiện:
1. Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra và không mất đi;
2. Tất cả các sự vật, hiện tượng của thế giới đều là những dạng, thuộc tính tồn tại cụ thế của vật chất. Thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động.
3.Tất cả các sự vật, hiện tượng của thế giới đều vận động phát triển theo các qui luật khách quan, chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, là nguyên nhân và kết quả của nhau;
4. Ý thức là thuộc tính của bộ não người, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não người.
1.2. Quan điểm duy vật về xã hội
Quá trình hình thành quan điểm duy vật về xã hội và cơ sở để xác định quan điểm duy vật về xã hội của C. Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin khẳng định: “Trong khi nghiên cứu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”[4]. C. Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy rằng, cũng như mọi hiện tượng trong giới tự nhiên đều có nguyên nhân vật chất, sự phát triển của xã hội loài người cũng do sự phát triển của lực lượng vật chất quyết định[5].
Nội dung cơ bản quan điểm duy vật về xã hội:
- Xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên
Tự nhiên theo nghĩa rộng, là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Xã hội chỉ là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Sự xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển của xã hội một mặt, phụ thuộc vào các qui luật tự nhiên, nhưng mặt khác còn phụ thuộc vào những qui luật xã hội, trong đó con người là chủ thể của lịch sử xã hội. Do đó, xã hội không thể là cái gì khác, mà chính là một bộ phận đặc thù, được tách ra hợp qui luật của tự nhiên, là hình thức tổ chức vật chất cao nhất của vật chất trong quá trình tiến hoá liên tục, lâu dài của tự nhiên.
Xã hội là một bộ phận đặc thù và là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên. Bởi vì, đồng thời với quá trình tiến hoá tiếp tục của tự nhiên, xã hội cũng có một quá trình phát triển lịch sử của mình, thể hiện bằng sự vận động, biến đổi và phát tirển không ngừng trong cơ cấu của xã hội. Đó là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội như là một quá trình lịch sử tự nhiên. Cơ sở cho sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội trong các giai đoạn cụ thể của lịch sử chính là những mối quan hệ sản xuất vật chất, những mối quan hệ kinh tế giữa người và người, trên đó hình thành nên một kiến trúc thượng tầng của xã hội tương ứng.  C. Mác viết: “Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển của lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại là đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại”[6].
Như vậy, xã hội là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người và người cũng được hình thành một cách khách quan và tất yếu. Sự vận động và phát triển của xã hội phải phụ thuộc vào những qui luật nội tại vốn có của nó, trước hết là những qui luật phổ biến của xã hội. Chính vì vậy, con người không thể tùy tiện lựa chọn chủ quan một hình thức xã hội này hay một hình thức xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của lịch sử thông qua hoạt động thực tiễn của mình thì con người có thể nhận thức, vận dụng thành công các qui luật khách quan để khẳng định vai trò của con người trong quá trình biến đổi hiện thực khách quan.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử và các khoa học xã hội khác khi nghiên cứu về xã hội, là nghiên cứu những mối liên hệ tất nhiên, bản chất, ổn định có tính lặp lại của các hiện tượng xã hội, để trên cơ sở đó tìm ra những qui luật khách quan của xã hội. Trong hệ thống những qui luật của xã hội, có những qui luật chung và phổ biến và đồng thời có những qui luật đặc thù. Qui luật tự nhiên diễn ra có tính chất tự phát theo những chu kỳ vận động vốn có của nó. Qui luật tự nhiên thường không có sự tác động trực tiếp của con người. Ngược lại những qui luật xã hội thể hiện sự trao đổi hoạt động của con người với nhau, chúng không thể tồn tại ngoài hoạt động của con người, nhưng cũng không phụ thuộc vào ý thức của con người. Có nghĩa là, trước tiên qui luật xã hội phải có đầy đủ những đặc trưng của qui luật nói chung, đó là tính khách quan, tất yếu và phổ biến.
Qui luật xã hội thường biểu hiện ra như một xu hướng chứ không thể hiện trực tiếp ở từng người, từng việc. Tính xu hướng của các qui luật xã hội là tự nó vạch ra con đường đi của mình thông qua vô vàn cái ngẫu nhiên. Ngoài những đặc trưng chung của qui luật nói chung, qui luật xã hội còn có những đặc trưng riêng.
Qui luật xã hội tồn tại và tác động trong những điều kiện nhất định. Đó là những điều kiện tất yếu khách quan của lịch sử thể hiện sự hình thành và tác động của các qui luật xa hội. Ví dụ, sự hình thành giai cấp và qui luật đấu tranh giai cấp, dân tộc và nhân loại.  Sự tác động của qui luật xã hội đều thông qua hoạt động của con người. Do vậy, lợi ích trở thành một yếu tố quan trọng trong cơ chế hoạt động của qui luật xã hội và trong nhận thức của con người về nó. Nhưng kết quả tác động của những qui luật xã hội không phụ thuộc và ý muốn chủ quan của từng cá nhân mà nó phụ thuộc vào lợi ích của cộng đồng người.
Để nhận thức được các qui luật xã hội cần phải có phương pháp khái quát hoá và trừu tượng hoá. Bởi vì, sự biểu hiện và tác động của các qui luật xã hội thường diễn ra trong một thời gian lâu dài, có khi là trong suốt quá trình lịch sử, do đó không thể dùng thực nghiệm để thẩm định như các qui luật tự nhiên. Để nhận thức được các qui luật xã hội cần phải nghiên cứu những nguyên nhân thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội.
Trong hệ thống các qui luật xã hội, thì qui luật quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một qui luật chung nhất. Trong đó sản xuất vật chất bao giờ cũng là cơ sở cho sự tồn tại vận động và phát triển của xã hội.
- Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên cải biến các dạng vật chất cần thiết phục vụ đời sống của con người. Hoạt động sản xuất vật chất, hình thức cơ bản nhất của hoạt động thực tiễn xã hội, gắn liền với quá trình con người sáng tạo ra công cụ và phương tiện lao động, quá trình con người chinh phục tự nhiên và qui định lẫn nhau trong hệ thống xã hội.
Đối lập với quan điểm biện chứng về xã hội, các nhà triết học trước Mác về cơ bản họ đều phủ nhận vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Họ cho rằng, nguyên nhân, động lực, tiêu chuẩn của sự phát triển xã hội đều do sự quyết định của ý thức, tư tưởng hoặc lực lượng siêu nhiên nào đó. Các nhà triết học duy vật trước triết học Mác cũng đã đề cập đến nguyên nhân kinh tế như là nguyên nhân chính của sự phát triển xã hội. Nhưng những quan niệm đó còn mang tính chất siêu hình, phiến diện. Khi họ tuyệt đối hoá một mặt nào đó của xã hội.
 Quan niệm biện chứng về xã hội của Mác theo như sự đánh giá của Ph.Ăngghen: C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra những qui luật của sự phát triển xã hội, tìm ra cái thật giản đơn... trước tiên con người phải ăn, uống, mặc và ở trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo, v.v... Sản xuất vật chất là một yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội. Mọi người trong xã hội đều có những nhu cầu và làm cách nào đó để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của mình như: ăn, mặc, ở, v.v... và để có thể thỏa mãn những nhu cầu trên thì tất nhiên con người phải sản xuất, vì sản xuất là điều kiện cho tiêu dùng.
Sự tồn tại của con người và xã hội, cũng như sự phát triển của nó đều trên cơ sở sản xuất vật chất của xã hội. Sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên tất cả các hình thức của quan hệ xã hội. Hoạt động ra của cải vật chất cho xã hội còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, tiêu chuẩn khách quan khẳng định trình độ chinh phục tự nhiên của con người và sự phát triển xã hội.
Sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử lại được tiến hành bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là một trong ba nhân tố của sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Trong đó hoàn cảnh địa lý và dân số chỉ là những nhân tố - tất yếu thường xuyên giữ vai trò quan trọng, chứ không giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội còn phương thức sản xuất - điều kiện tất yếu quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội.
Quan niệm duy vật lịch sử khẳng định các phương diện sinh hoạt vật chất với tính cách là tồn tại xã hội quyết định các phương diện sinh hoạt tinh thần là ý thức xã hội; song cũng thấy được thấy được tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thông qua các qui luật của đời sống tinh thần xã hội.
- Sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với quá trình đó là lịch sử của các hình thái kinh tế - xã hội theo những qui luật, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Mác khẳng định rằng “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”[7].
Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Mối liên hệ tác động qua lại của các nhân tố này thể hiện sự tác động của các qui luật chung vào trong các giai đoạn của sự phát triển của lịch sử làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển như một tiến trình lịch sử tự nhiên.
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã qui định một cách khách quan tính chất và trình độ của quan hệ sản xuất. Do đó xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội như quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong hệ thống các qui luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, thì qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Mặt khác, sự tác động đến quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên còn thể hiện sự tác động trực tiếp, quan trọng của qui luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Có nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến quá trình thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau trong sự phát triển của lịch sử. Trong đó điều kiện của môi trường địa lý, tính độc đáo của các nền văn hóa, của truyền thống, tư tưởng, tâm lý xã hội và vấn đề dân tộc v.v... đều có ý nghĩa quan trọng nhất định. Tính chất của tác động lẫn nhau giữa các dân tộc tồn tại ở các giai đoạn khác nhau đều phụ thuộc vào tính chất của chế độ xã hội. Để xác định tính đặc trưng và phân biệt sự khác nhau giữa các giai đoạn, phù hợp với khuynh hướng chủ đạo đó, người ta dùng khái niệm thời đại.
- Quẩn chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử
Một trong những nguyên lý cơ bản duy vật về xã hội của triết học Mác – Lênin là quan điểm cho rằng con người là chủ thể của lịch sử. Chủ thể người được thể hiện dưới nhiều hình thức như cá nhân, cộng đồng người… Trong đó, quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử.
Quần chúng nhân dân là những cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của các cá nhân hay các tổ chức xã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ của lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân trước hết là sự khẳng định quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội. Hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân là cơ sở cho sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội.
Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. V.I.nin đã từng khẳng định rằng sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Bởi vì, trong hoạt động đấu tranh xã hội, thì trước hết quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của cách mạng đóng vai trò quyết định đến thắng lợi của các cuộc cách mạng xã hội. Trong hoạt động đấu tranh xã hội vai trò của quần chúng nhân dân còn được thể hiện đối với quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc và cộng đồng dân tộc. Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa là mục đích cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Điều này có nghĩa là lợi ích chung của toàn bộ xã hội luôn là lợi ích chung của quần chúng nhân dân.  
Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế, trong sản xuất tinh thần của xã hội. Quần chúng nhân có vai trò to lớn trong quá trình sáng tạo và phát triển đời sống tinh thần của xã hội. Trước hết, hoạt động của quần chúng nhân dân trong sản xuất vật chất, trong hoạt động đấu tranh xã hội đã quyết định quá trình hình thành và phát triển những phong tục - tập quán, truyền thống, văn hoá của các dân tộc của nhân loại. Mặt khác, quần chúng nhân dân với hoạt động thực tiễn của họ, họ vừa là chủ thể, khách thể và là cơ sở của sản xuất tinh thần xã hội.
Triết học Mác – Lênin, một mặt khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử; nhưng mặt khác không phủ nhận vai trò của vĩ nhân, lãnh tụ đối với sự phát triển của xã hội.
Sự xuất hiện các vĩ nhân, lãnh tụ trong lịch sử là một tất yếu khách quan, do những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn khác nhau mà sự xuất hiện các vĩ nhân và vai trò của họ cũng khác nhau.
Không thể có vĩ nhân, lãnh tụ tồn tại một cách thuần túy, độc lập tuyệt đối với quần chúng nhân dân mà sự xuất hiện và vai trò của họ đều thông qua các tổ chức xã hội nhất định. Hoạt động của quần chúng nhân dân và vai trò của họ không tồn tại bên ngoài các tổ chức xã hội. Trong các tổ chức xã hội, vĩ nhân, lãnh tụ không chỉ là người tổ chức, lãnh đạo mà họ còn có khả năng tập hợp quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể của lịch sử.
2. Bản chất của chủ nghĩa nghĩa duy vật biện chứng
2.1. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ lý luận đến thực tiễn
Trong tác phẩm “Lút vích Phoiơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ph.Ăngghen đã viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, nhất là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”[8]. Ở đây, mối quan hệ này được hiểu là mối quan hệ giữa ý thức và vật chất; hoặc là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức là tính thứ nhất, là cái có trước quyết định đối với vật chất, sản sinh ra vật chất; ngược lại chủ nghĩa duy vật thừa nhận vật chất là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định đối với ý thức còn ý thức là tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào vật chất.
Cố nhiên, việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học của chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học trước Mác cũng là vấn đề lý luận khác nhau về bản chất của thế giới. Điều quan trọng, theo Mác không phải việc giải thích về bản chất của thế giới bằng cách này hay cách khác; mà là vấn đề thực tiễn, vấn đề cải tạo thế giới.
Sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học, cũng như vị trí của triết học cũng biến đổi. “Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”[9] Đây cũng là “khiếm khuyết chủ yếu” về quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa duy vật trước Mác[10].
Chủ nghĩa duy vật trước Mác thiếu quan điểm thực tiễn khi giải quyết mối quan hệ đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội. Nên có quan điểm duy vật về tự nhiên và duy tâm về xã hội nên các học thuyết đó chưa trở thành công cụ nhận thức khoa học để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Nói một cách khác, chủ nghĩa duy vật trước Mác là duy vật không triệt để.
Thực tiễn với tính cách là toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo thế giới. Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động biến đổi xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động thực tiễn (trước hết là hoạt động sản xuất vật chất) là quá trình tác động của con người vào hiện thực khách quan, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể với tính tích cực và sáng tạo của mình có khả năng làm biến đổi khách thể và đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình.
Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ lý luận đến thực tiễn, thông qua thực tiễn, ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn “sáng tạo ra thế giới”. C.Mác cho rằng thực tiễn là nơi con người chứng minh sức mạnh, chứng minh tính hiện thực và tính trần tục của tư duy[11]… “không loại trừ các lĩnh vực tư tưởng… cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất trực tiếp, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”[12]
2.2. Thống nhất thế giới quan duy vật và phép biện chứng
Trong lịch sử triết học trước Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách rời nhau. Cố nhiên, trong các học thuyết triết học duy vật trước Mác vẫn có những tư tưởng biện chứng; nhưng do nguyên nhân về mặt lịch sử,  nên họ vẫn bị chi phối bởi phương pháp tư duy siêu hình.
Nhà biện chứng Hêghen không chỉ phê phán mạnh mẽ phương pháp tư duy siêu hình, mà còn diễn đạt có hệ thống những qui luật, phạm trù cơ bản của phép biện chứng. Song do thừa nhận vai trò quyết định của “ý niệm tuyệt đối” trong sự tha hoá của nó ở tự nhiên, xã hội và tư duy, nên hệ thống triết học Hêghen còn chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn. Chẳng hạn, như mâu thuẫn tính cách mạng của phép biện chứng với tính bảo thủ của hệ thống triết học của Hêghen.
Việc tách rời giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng đã không chỉ làm cho các nhà duy tâm mà ngay cả các nhà duy vật trước Mác giải thích khoa học về mối liên hệ phổ biến, sự thống nhất, sự thay đổi chuyển hoá giữa các sự vật hiện tượng vật chất của thế giới.
Kế thừa, phát triển những tư tưởng biện chứng của chủ nghĩa duy vật trước đó, nhất là những yếu tố hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen C.Mác đã tạo ra hình  thức cao của chủ nghĩa duy vật, của phép biện chứng, đó là thể hiện sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Theo Lênin thì Mác đã làm phong phú chủ nghĩa duy vật bằng phép biện chứng, còn phép biện chứng đặt trên cơ sở hiện thực trở thành khoa học.
Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng đã đem lại cho con người một quan niệm khoa học về thế giới – quan niệm thế giới là chỉnh thế thống nhất, là một quá trình với tính cách là vật chất không ngừng vận động, chuyển hoá và phát triển.
2.3. Tính thực tiễn và cách mạng
- Trong triết học trước Mác về cơ bản đều không thấy được vai trò của thực tiễn đối với lý luận và đối với sự phát triển của xã hội. Cơ sở lý luận của các hệ thống triết học trước kia, nhất là triết học duy tâm không phải quan điểm từ vật chất, từ hoạt động thực tiễn, mà chủ yếu là sự nhấn mạnh đến vai trò quyết định của cái tinh thần, của lực lượng siêu nhiên.
Việc đưa quan điểm thực tiễn vào lý luận, triết học Mác không những thực hiện một cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học mà còn tạo cơ sở để khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duyvật trước Mác, phê phán chững quan điểm sai lầm của triết học duy tâm và thuyết không thể biết.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác. Đó là sự khẳng định thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuan của lý luận, nhưng cũng phải thấy được vai trò của lý luận trong việc xác định mục đích hoạt động của con người nhằm đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn. Xác định lực lượng, phương pháp thực hiện mục đích (mục tiêu đã đề ra) gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể. Định hướng, dự báo và có ý nghhĩa cải tạo hiện thực khách quan một khi tri thức khoa học được vận dụng thành công trong thực tiễn, trở thành lực lượng vật chất trực tiếp.
- Triết học Mác là thế giới quan của giai cấp vô sản với tính cách là hệ tư tưởng, cơ sở lý luận cho sư hoạt động của các chính đảng cộng sản – tổ chức chính trị của giai cấp vô sản, tổ chức lãnh cuộc đấu tranh chung của giai cấp vô sản trong việc thực hiện vai trò và sứ mệnh lịch sử của nó.
Chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng thể hiện bản chất của sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa hoc; giữa lý luận và thực tiễn, nhờ đó mà triết học Mác được coi là triết học hành động có ý nghĩa cải tạo hiện thực khách quan.
Trong thời đại của cách mạng khoa học – công nghệ, các trào lưu cách mạng xã hội đã và đang tạo nên sự biến đổi sâu sắc và hết sức năng động trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Sự thực hiện những nhiệm vụ to lớn nhằm mục tiêu tiến bộ xã hội do thời đại đặt ra đòi hỏi con người phải có thế giới quan khoa học vững chắc và năng lực tư duy sáng tạo. Việc nắm vững triết học Mác – Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và tư duy sáng tạo của mình. Đó còn là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và của công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta nói riêng.
- Trong lịch sử phát triển của triết học thì đối tượng nghiên cúu của triết họ cũng thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử. Triết học Mác đoạn tuyệt với quan niệm xem triết học là “khoa học của các khoa học” như tham vọng của các trường phái triết học tự nhiên trước kia, mà xem sự gắn bó với khoa học cụ thể là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học.
Triết học Mác với thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học của mình có ý nghĩa định hướng chung cho sự phát triển của khoa học và càng trở nên đặc biệt quan trọng trong thời đại khoa học – công nghệ hiện nay.
Trong thời đại của cách mạng khoa học – công nghệ, các trào lưu cách mạng xã hội đã và đang tạo nên sự biến đổi sâu sắc và hết sức năng động trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Sự thực hiện những nhiệm vụ to lớn nhằm mục tiêu tiến bộ xã hội do thời đại đặt ra đòi hỏi con người phải có thế giới quan khoa học vững chắc và năng lực tư duy sáng tạo. Việc nắm vững triết học Mác – Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và tư duy sáng tạo của mình. Đó còn là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và của công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta nói riêng
Sự biến đổi về tính chất và đối tượng nghiên cứu của triết học gắn liền với sự phân ngành của khoa học cụ thể. Nhưng sự ra đời của triết học Mác đã giải quyết một cách khoa học về mối quan hệ giữa triết học và khoa học.
Triết học Mác và chủ nghĩa Mác hình thành và phát triển mang tính khách quan, và chính bản thân Mác – Ăngghen đã từng nhấn mạnh rằng: Nó không phải là một hệ thống lý luận giáo điều, kinh viện hoặc nó hoàn toàn đã hoàn chỉnh, nên nó cũng như các khoa học khác cần phải được bổ sung và phát triển thêm về mặt lý luận và phải được vận dụng một cách sáng tạo trong những điều kiện lịch sử nhất định.


[1] Mayer (1814- 1878) là bác sỹ y khoa, ông là người đầu tiên phát minh ra định luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng, để ghi nhớ công lao của ông đối với vật lý người ta đặt hệ thức Cp – Cv = R là “phương trình Mayer”. Định luật này khác với định luật bảo toàn chuyển hóa khối lượng của Mikhail Vasilyevich Lomonosov (1748) đặt ra định đề và đến năm 1769 được Antoine Lavoiser phát biểu định luật này.
[2] Do Slâyđen (Matthias Schleiden, 1804 – 1881) và Svan (Theodor Schwan, 1810 – 1882) phát minh.
[3] Học thuyết tiến hóa của Đác Uyn (Darwin Chales)

[4] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Ma1txcơva, 1980, t. 23, tr. 58
[5] Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Ma1txcơva, 1974, t. 2, tr. 6.
[6] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t 6, tr. 553.
[7] C.Mác: Tư bản, quyển I, tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1973, tr.20.
[8] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 21, tr. 403.
[9] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 3, tr. 12.
[10]  Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 42, tr. 373 - 371.
[11]  Xem: Sđd, tr.373-371..
[12] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1977, t 1, tr. 580.

0 nhận xét :