Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật

a. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Đối lập với quan điểm biện chứng, quan điểm siêu hình coi sự tồn tại của các sự vật và hiện tượng trong thế giới là những cái tách rời nhau, giữa chúng không có sự liên hệ tác động qua lại, không có sự chuyển hóa lẫn nhau và nếu có chỉ là sự liên hệ mang tính chất ngẫu nhiên, gián tiếp. Ngược lại, phép biện chứng duy vật cho rằng, sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của thế giới không phải là sự tồn tại tách rời và cô lập lẫn nhau, mà chúng là một thể thống nhất. Trong thể thống nhất đó những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc và phụ thuộc, qui định lẫn nhau, chuyển hoá cho nhau.
Ví dụ: tự nhiên theo nghĩa rộng, là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Xã hội chỉ là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Sự xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển của xã hội một mặt, phụ thuộc vào các qui luật tự nhiên, nhưng mặt khác còn phụ thuộc vào những qui luật xã hội, trong đó con người là chủ thể của lịch sử xã hội. Do đó, xã hội không thể là cái gì khác, mà chính là một bộ phận đặc thù, được tách ra hợp qui luật của tự nhiên, là hình thức tổ chức vật chất cao nhất của vật chất trong quá trình tiến hoá liên tục, lâu dài của tự nhiên.
- Tính chất của mối liên hệ: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú.
 Tính khách quan của mối liên hệ là mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, dù thể hiện dưới hình thức nào cũng cũng là sự qui định, tác động và chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng độc lập và không phụ thuộc vào ý thức con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn xã hội. Ví dụ: con người không thể tùy tiện lựa chọn chủ quan một hình thức xã hội này hay một hình thức xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của lịch sử thông qua hoạt động thực tiễn của mình thì con người có thể nhận thức, vận dụng thành công các qui luật khách quan để khẳng định vai trò của con người trong quá trình biến đổi hiện thực khách quan.
Tính phổ biến của mối liên hệ là không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới tồn tại tuyệt đối biệt lập mà bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ vốn có của sự vật, hiện tượng như một cấu trúc mang tính hệ thống và sự tương tác và biến đổi lẫn nhau trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của mối liên hệ là đối tượng nghiên cứu của từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng duy vật thì nghiên cứu những mối liên hệ phổ biến của tự nhiên xã hội và tư duy. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã viết: “Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”[1].
Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ là các sự vật, hiện tượng đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau gắn liền với những điều kiện khách quan nhất định. Căn cứ tính đa dạng phong phú của mối liên hệ có thể phân chia các mối liên hệ theo từng cặp như mối liên hệ bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, mối liên hệ cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng… Sự phân chia các cặp của các mối liên hệ cũng mang tính tương đối, vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận của mối liên hệ phổ biến và giữa chúng đều có khả năng chuyển hoá cho nhau, tùy theo những điều kiện khách quan nhất định.
b. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Cho nên, khi nghiên cứu mối liên hệ phổ biến phải có quan điểm toàn điện, quan điểm lịch sử cụ thể.
- Nguyên tắc (Quan điểm) toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích về sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật khác. Đồng thời, phải nghiên cứu tất cả những mặt, những yếu tố, những mối liên hệ vốn có của nó. Qua đó để xác định được mối liên hệ bên trong, bản chất, qui luật của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, tức là các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là có sự thống nhất ở mức độ nhất định về mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại những mâu thuẫn nhất định…
- Nguyên tắc (Quan điểm lịch sử cụ thể) đòi hỏi khi nghiên cứu sự vật phải thấy sự tồn tại vận động và phát triển của bản thân các sự vật và hiện tượng là một quá trình có tính giai đoạn, tính lịch sử cụ thể. Khi phân tích tính toàn diện về các mối liên hệ của sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ cụ thể, với những điều kiện lịch sử cụ thể của các mối quan hệ đó. Ví dụ: Nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, không có nghĩa là xóa bỏ các quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mà chỉ phát triển sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Hiện nay trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nên việc duy trì và phát triển hình thức sở hũu tư nhân về tư liệu sản xuất là một yêu cầu khách quan mang tính qui luật.
Phê phán quan điểm siêu hình coi sự tồn tại của các sự vật và hiện tượng trong thế giới là những cái tách rời nhau, giữa chúng không có sự liên hệ tác động qua lại, không có sự chuyển hóa lẫn nhau và nếu có chỉ là sự liên hệ mang tính chất ngẫu nhiên, gián tiếp.


[1] Ph. Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà nội, 1971, tr.5.

0 nhận xét :