Các
nhà văn, nhà thơ vốn được xem là những người giàu chữ nghĩa. Chính bởi
thế mà trong một số trường hợp, để tỏ thái độ bất ưng của mình với một
tác phẩm nào đó, họ không "ngang bằng sổ thẳng" mà tìm ra những cách
nói khá độc đáo, khiến người đối thoại không khỏi... bất ngờ. Một số
mẩu chuyện sau đây là những ví dụ...
Các
nhà văn, nhà thơ vốn được xem là những người giàu chữ nghĩa. Chính bởi
thế mà trong một số trường hợp, để tỏ thái độ bất ưng của mình với một
tác phẩm nào đó, họ không "ngang bằng sổ thẳng" mà tìm ra những cách
nói khá độc đáo, khiến người đối thoại không khỏi... bất ngờ. Một số
mẩu chuyện sau đây là những ví dụ...
Nói gần nói xa chẳng qua... nói thật
Sinh
thời, nhà thơ Chế Lan Viên không thuộc trong số những người đánh giá
cao bài thơ "Ngói mới", dù rằng có thời kỳ nó được đưa vào giảng dạy
trong nhà trường và được xem như một bước tiến của thơ Xuân Diệu sau
Cách mạng. Theo ghi chép của nhà phê bình văn học Hà Minh Đức thì trong
một cuộc trao đổi về thơ, Chế Lan Viên có nêu nhận xét: "Bài thơ Ngói
mới có ý hay, nhưng nếu cứ thế thì thêm hàng trăm câu cũng không khác".
Còn
theo cuốn "Chuyện vui các nhà văn Việt Nam hiện đại" (NXB Thanh niên,
1990) của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi thì một lần, sau khi Chế Lan Viên đi
công tác khu 4 về, Xuân Diệu hỏi người dân ở đó họ thích thơ ai nhất.
Chế Lan Viên bình thản đáp: "Tôi có hỏi nhiều người thuộc nhiều tầng
lớp. Ai người ta cũng bảo họ thích nhất thơ Bút Tre".
Xuân Diệu nghe vậy giãy nảy: "Trời ơi, thích nhất thơ Bút Tre! Cái thứ thơ "Mời bạn về thăm núi Con Voi/ Đủ cả đầu đuôi đủ cả vòi/ Voi cũng như người voi sản xuất/ Đầu thì nương sắn, đít nương khoai"
ấy ư? Thị hiếu văn chương hỏng hết rồi". Tới đó, Xuân Diệu hỏi dồn,
rằng sao Chế Lan Viên không hỏi trong thơ Bút Tre, người dân thích bài
nào nhất.
Đến
đây, Chế Lan Viên mới hóm hỉnh "thả" một câu: "Họ bảo họ thích nhất
bài... Ngói mới". Thì ra, Chế Lan Viên muốn mượn câu chuyện hài hước ấy
để... chê khéo bài thơ "Ngói mới" của Xuân Diệu. Xuân Diệu, mặc dù biết
mình bị "bẫy" song chắc cũng chỉ... cười xòa.
Từ khen xuống chê cách nhau có... một chữ
Tác
giả "Tây tiến" - nhà thơ Quang Dũng - thời kỳ làm biên tập viên Nhà
xuất bản Văn học đã có cách từ chối bản thảo của một tác giả khá bất ngờ
và độc đáo: Trước đó, ông cất lời... khen, nhưng là khen những thứ râu
ria không liên quan đến chất lượng nghệ thuật.
Ông
nói với tác giả: "Tôi đã đọc rất kỹ bản thảo của anh. Bản thảo có
nhiều ưu điểm. Chữ đẹp, viết cẩn thận, sạch sẽ. Nói chung, các truyện
anh viết đều... (nói đến đây, ông dừng lại rót nước mời khách. Trong
khi vị khách ngỡ Quang Dũng khen mình viết... đều tay thì nhà thơ nói
tiếp) không dùng được". Có thể nói, chỉ trong một câu nhận xét, tác giả
"Tây tiến" đã khiến ông tác giả kia như đang từ trên trời rơi tõm
xuống mặt đất vậy.
Chưa đủ để khen
Sinh
thời, nhà phê bình văn học Hoài Thanh nổi tiếng là tao nhã, tế nhị
trong việc phê thơ. Ông thường lựa lời để người bị chê ít cảm thấy
thương tổn. Ấy là việc viết ra giấy trắng mực đen. Còn trong giao tiếp
đời thường, khi cần ông cũng thể hiện rõ sự nghiêm khắc của mình.
Chuyện
kể rằng, hồi ông còn làm Viện phó Viện Văn học, nhân đọc bản báo cáo
tình hình văn học trong năm của một cán bộ trong Viện (người này có học
vị Phó tiến sĩ), Hoài Thanh đã nhận xét: "Bài viết của anh có nhiều
điểm đúng và nhiều điểm mới. Nhưng... những điểm đúng thì người ta đã
nói, còn những điểm mới thì lại... sai".
Quả là một cách phê bình mang nét dí dỏm rất Hoài Thanh.
Chê để khen và khen để... chê?
Nhiều
người đã biết, Nguyễn Tuân là nhà văn rất khó tính trong thẩm định văn
chương. Để có được một lời khen của ông quả thật không hề dễ dàng.
Ngay với nhà văn Tô Hoài, người có vị thế văn học và từng nhiều năm
tháng quen thân nhau, song phải mãi sau này, nhân đọc một truyện ngắn
mới của Tô Hoài trên Báo Sài Gòn giải phóng, ông mới viết thư cho tác
giả, thể hiện sự ưng ý, tâm đắc của mình.
Trong
hồi ký "Cát bụi chân ai", Tô Hoài có trích in một đoạn thư của Nguyễn
Tuân gửi cho ông: "Tô Hoài. Mình thường ít khen ông - về cả con người,
cả nhà văn. Nhưng đọc Sài Gòn giải phóng, 13 tháng giêng 1985, mình
thấy có một cái gì mơi mới ở ông. Nhưng phải khen cái truyện ngắn khá
dài, khá sâu rộng này. Người thật việc thật trong chuyện này có thật
không, hoặc có thì tới mức nào, đối với tôi không quan trọng. Cái quan
trọng là nó như thật".
Có
người đọc trích đoạn thư này, xem như Nguyễn Tuân "chê để khen", để
nhấn mạnh cái cảm xúc khi ông đọc được một truyện mà ông tâm đắc. Song
cũng có người lại cho rằng, đó đồng thời là một cách khen để... chê của
ông, bởi vốn dĩ, như Tô Hoài nhận xét, giữa Nguyễn Tuân và ông có
"nhiều cái không bằng lòng", kể cả trong tính cách và trong thẩm mỹ văn
chương.
Không chê kém mà chê... hỗn
Trong
những cây đại thụ của làng thơ Việt Nam, Xuân Diệu vẫn được xem là một
trong những người cẩn trọng (thậm chí còn rất khe khắt) trong việc
khen - chê. Nếu như Chế Lan Viên còn chịu khó biểu dương phong trào thì
hầu như Xuân Diệu chỉ đi vào nghiên cứu tìm hiểu tác giả, mà chủ yếu
là những tác giả cổ điển.
Đối
với anh em trẻ, cũng có khi ông viết nhận xét về họ qua các cuộc thi
thơ, nhưng chủ yếu là nhìn từ góc độ những chỗ chưa đạt để nhắc nhở anh
em nghiêm túc hơn khi vào nghề viết. Phải nói, những lời phê bình của
ông rất có ý nghĩa vì đa phần đều xác đáng.
Trong
cuộc thi thơ 1972- 1973, báo Văn Nghệ in bài "Bà" của một cây bút trẻ.
Xuân Diệu nhận định: "Tác giả bài Bà vì quá vô ý mà phạm phải nhiều
lần vô lễ (ở trong thơ) đối với bà".
Khi cây bút trẻ nọ viết:
Đất màu nâu, da bà cũng màu nâu
Xuân
Diệu phê: "Bà nội, bà ngoại đâu có phải một chiếc ấm đất mà nói cộc
lốc như vậy. Anh lại càng vô lễ khi nói với bà rằng: mặt của bà nếp
nhăn nhiều như mặt lúa khô queo".
Đến câu:
Giờ cây lúa đổi mùa thay hạt
Bà ơi, bà có trẻ thêm
Xuân
Diệu bực bõ nhận xét: "Nếu cháu có hiếu thì cháu cứ khẳng định: cây
lúa đổi mùa thay hạt, bà của cháu như cũng trẻ thêm ra. Chứ theo tôi
nghĩ, hỏi như tác giả hỏi, là xấc láo với bà".
Câu "Ủ cho cháu là rừng cây đằm thắm/ Phải tay bà quàng đến sau lưng",
Xuân Diệu than thở: "Chao ôi, tại người viết quá ư vô ý tứ chứ không
phải tại tôi muốn sinh chuyện. Đáng lẽ có thể nói "ấm áp như tấm lòng
của bà vẫn theo cháu mà ấp ủ", chứ cháu trai đã 19, 20 tuổi, có thể nói
"bà mừng rỡ quá ôm chầm lấy cháu", chứ sao lại viết tỉ mỉ "Bà quàng
cánh tay qua sau lưng".
Mới
thấy, ở đây, Xuân Diệu không cần nói nhiều về nghệ thuật dựng tứ hay
dùng từ, ông chỉ nói về cách xử sự đời thường, chỉ cần vậy thôi mà bài
thơ bị ông phê đã hoàn toàn... đo ván.
Hơn cả phê bình
Năm
ấy, tập thơ "36 bài tình" của hai tác giả nọ ra đời. Nhiều anh em làng
văn tỏ ra rất khó chịu, cho rằng đây là một cuốn sách lập dị, tắc tị,
mà sự chồng chất các câu chữ vô nghĩa lý của nó là một sự xúc phạm với
thi ca. Nhiều bài phê bình đã được các báo in ra.
Và
vấn đề lại tiếp tục được nêu lên tại cuộc họp bàn về thơ ở 19 Hàng
Buồm- trụ sở Hội Văn nghệ Hà Nội. Tôi còn nhớ hôm ấy có nhà phê bình đã
đọc cả bài viết rất cặn kẽ của mình để chỉ trích tập thơ ấy. Đến gần
cuối buổi, nhà thơ Trần Ninh Hồ bỗng đứng dậy phát biểu. Câu nói của anh
làm tất cả mọi người đều ngạc nhiên:
- Vừa rồi, tôi nghe đâu công nhân nhiều nhà máy in đang đòi sang làm việc ở cơ sở in tập thơ kia.
Mọi người ngơ ngác chưa hiểu ra sao, thì Trần Ninh Hồ giải thích:
-
Là vì họ bảo họ rất thích được in những tập như thế này. Họ có thể xếp
chữ nhầm lẫn lung tung, chữ nọ ghép với chữ kia chẳng ra nghĩa gì, mà
cũng không sao cả. Vì bản thân chữ nghĩa của tác giả cũng vốn đã như
vậy...
Mọi người cười ồ, thầm khen sự thông minh của nhà thơ.
Chê thơ bằng cách chơi chữ qua... tên sách
Trong
các nhà thơ đương đại, Trần Đăng Khoa là người có biệt tài trong việc
thể hiện sự khen - chê của mình qua một cách nói hết sức độc đáo. Anh
từng nhận xét về cái ưu và cái nhược của một tác giả lớp trước: "Khi cần
ngắm ông ở thể loại này, lại thấy ông lấp lánh sáng ở thể loại khác.
Cũng vì thế, có nhà phê bình chẳng biết xếp ông vào đâu".
Với
nhà thơ Trúc Thông, tác giả hai tập thơ "Chầm chậm tới mình" và
"Maratông" (trong đó có bài thơ lục bát "Bờ sông vẫn gió" được nhiều bạn
đọc yêu thích), Trần Đăng Khoa đã có cách chơi chữ rất dí dỏm, thông
minh, qua đó phần nào thể hiện được sự "đong đếm" của anh: "Sau Chầm
chậm tới mình, Trúc Thông bắt đầu chạy Maratông.
Có
lẽ do mặc cảm, lại lo ngại đường xa, nên anh chạy quá nhanh. Nhanh đến
mức tất cả thành lòa nhòa. Anh chẳng còn nhìn thấy ai, và cũng chẳng
để ai nhìn rõ anh. Có điều, cái đích mà anh cần tới lại nằm xa dần ở
phía... sau lưng: Bờ sông vẫn gió" (theo "Chân dung và đối thoại" - NXB
Thanh niên, 1999). Những cách phê bình như thế không chỉ hấp dẫn độc
giả mà còn gửi gắm được quan điểm của tác giả, và điều quan trọng là
chính cách nói vui vui ấy khiến người bị phê cũng dễ... tiếp nhận hơn
| |||||
Tường Du |
0 nhận xét :
Đăng nhận xét