I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
a. Nguồn
gốc của triết học
Triết học xuất
hiện khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI (Tr. Công nguyên) trong xã hội
chiếm hữu nô lệ. Triết học là một hình thái của ý thức xã hội.
Triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc nhận thức. Triết học xuất hiện khi trình độ nhận thức khi con người có khả năng
khái quát và trừu tượng hóa những cái riêng lẻ, cụ thể để nắm bắt được cái
chung, cái bản chất và qui luật của thế giới trong nhận thức của con người.
- Nguồn gốc xã hội: Triết học chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp với tính
cách là hệ tư tưởng của một giai cấp nhất định.
b. Khái niệm triết học
Triết học là hệ thống quan điểm lí luận chung nhất về thế
giới và vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó, là khoa học về những
quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Như vậy, triết học tồn tại ở dạng lý luận, ra đời và phát
triển dựa trên tri thức nhân loại đã đạt tới trình độ tư duy trừu tượng, khái
quát thành “hệ thống lý luận chung nhất về thế giới”.
- Thuật ngữ triết học:
+ Người Trung
Quốc cổ đại xuất phát từ chữ Triết là sự truy tìm bản chất
của đối tượng với tính cách là trí tuệ, tri thức của con
người...
+ Người Ấn Độ
cổ đại xuất phát từ chữ dar’sana có nghĩa là chiêm ngưỡng có
nghĩa là tri thức dựa trên lý trí là con đường suy ngẫm dẫn dắt con
người đến lẽ phải...
+ Người Hy Lạp cổ đại xuất phát từ một
thành ngữ la tinh philosophia = Philo (tình yêu) + sophia (sự thông thái). Theo nghĩa đó, Triết học là “yêu mến sự thông
thái” hoặc “làm bạn với trí tuệ”.huật ngữ triết học trong văn hóa Hy lạp: Philosophia =
Philo (tình yêu) + sophia (sự thông thái).
Theo ý nghĩa đó, triết học hàm nghĩa: phương pháp nhận thức thế giới (sự thông thái) và hướng dẫn hành động cải tạo thế giới
phục vụ con người (tình yêu). Triết học là
“yêu mến sự thông thái” hoặc “làm bạn với trí tuệ”.
c. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Triết học với tính cách là một khoa học xuất hiện rất sớm
trong thời kỳ cổ đại. Tuy nhiên, sự hình thành, phát triển của triết học cũng
như việc xác định đối tượng nghiên cứu của triết học cũng thay đổi gắn liền với
những điều kiện lịch sử xã hội nhất định.
Đối tượng của triết học là thế giới vật chất và con người, nó được nghiên cứu dưới dạng các
qui luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Mặc dù, đối tượng nghiên cứu
của triết học cũng thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử. Nhưng triết học
bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận; như vấn đề mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất;
về khả năng nhận thức của con người.
d. Triết
học – hạt nhân (cơ sở) lý luận của thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ
những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống
và vị trí của con người trong thế giới. Có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu về
thế giới quan. Xét theo quá trình phát triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản: Thế giới quan huyền thoại, thế giới
quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
- Thế giới quan huyền thoại là thế giới quan có nội dung kết hợp một
cách tự nhiên (không tự giác) giữa thực và ảo.
Thế
giới quan huyền thoại đặc trưng nhận thức về thế giới, đánh giá giá trị của xã
hội, được thể hiện thông qua các chuyện thần thoại của công xã nguyên thủy. Thế
giới quan huyền thoại chứa đựng sự kết hợp một cách tự nhiên giữa thực và ảo,
giữa người và thần. Sự kết hợp này, như Ph. Ăngghen nhận định, là kết quả tất yếu
của trình độ nhận thức thấp, khi con người chưa hiểu nguồn gốc, bản chất và qui
luật của các sự vật, hiện tượng của thế giới và chính bản thân con người nên họ
đã nhân cách hoá các vị thần hoặc bán thần trong thần thoại.
- Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức
mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện
thông qua hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái các lực lượng siêu nhiên.
Sự
ra đời của thế giới quan tôn giáo có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức.
Nguồn
gốc xã hội do sự bất lực của con người trước những lực lượng xã hội gây ra nhiều
tai họa cho con người làm nảy sinh ra tín ngưỡng tôn giáo với những ước mơ, khát vọng vào cuộc sống sau
khi đã chết.
Nguồn
gốc về mặt nhận thức, do tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, tách ý thức ra khỏi
con người, mặt khác còn do sự bất lực của con người trước các hiện tượng tự
nhiên dẫn đến thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên, hình thành biểu tượng và
tình cảm, niềm tin và lý tưởng tôn giáo. Sự hình thành và phát triển của thế giới
quan tôn giáo đều gắn liền với với quá trình hình thành và phát triển của tôn
giáo.
- Thế giới quan
triết học ra đời trong thời kỳ chuyển biến từ chế
độ nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ. Thế giới quan triết học không chỉ
trình bày các quan niệm của mình mà còn chứng minh các quan niệm đó bằng lý
luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới.
Như vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan;
triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình hình thành và phát triển thế giới
quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử .
2.Vấn đề cơ bản
của triết học
a. Nội
dung vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm Lút
vích Phoiơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ăngghen đã viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”[1], hay giữa ý thức với vật chất.
Vấn đề cơ
bản của triết
học
có hai mặt:
- Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan
hệ giữa
tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào
có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái
nào?
- Mặt thứ hai
(mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
Việc giải quyết
vấn
hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các trường phái triết học và thông qua đó xác định
sự giống nhau, khác nhau giữa giữa các trường phái triết học trong
lịch sử.
b. Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm
- Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học
(nhất nguyên luận) xuất phát từ quan điểm: bản chất của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai;
vật chất có trước ý thức và quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản:
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học
(nhất nguyên luận) cho rằng: bản chất của thế
giới
là tinh thần; ý thức là tính thứ nhất,
vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy
tâm có hai phái:
+ Chủ nghĩa duy tâm
khách quan
+ Chủ nghĩa duy tâm
chủ quan
c. Một số các trường phái triết học
khác
-
Thuyết bất khả tri: Con người không
thể hiểu được bản chất thật sự của đối
tượng; Các hiểu biết của con người về tính chất, đặc điểm… của đối tượng mà,
dù có tính xác thực, cũng không cho phép con
người đồng nhất chúng với đối tượng vì nó không đáng tin cậy
- Thuyết nhị nguyên
- Thuyết tôn giáo
3. Biện chứng và siêu hình
a. Sự đối
lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
- Phương pháp siêu hình
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng
ra khỏi các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt
đối.
+ Nhận thức đối
tượng ở trạng thái tĩnh tại, nếu có sự biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về số
lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng. Hạn chế:
phiến diện, cứng nhắc, không đúng như sự vật đang tồn tại.
- Phương pháp biện chứng:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối
liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc lẫn nhau.
+ Nhận thức đối
tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.
b. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp
biện chứng đã qua ba giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba
hình thức lịch sử của nó:
- Phép biện chứng tự
phát(chất phát)cổ đại. Xét
về mặt thế quan là duy vật. Đó là những quan niệm sơ khai, chất phác
về thế giới. Xét về phương pháp luận mang tính trực quan, phỏng đoán
chưa có cơ sở khoa học.
Phép biện
chứng chất phác cổ đại có tính mâu thuẫn giữa thế giới quan và
phương pháp luận.
- Phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của
hình thức này được thể hiện trong triết học cổ điển Đức. Đó là phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Xét về mặt thế giới
quan là duy tâm. Theo Hêghen biện chứng ở
đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự
sao chép thế giới ý niệm. Xét về mặt
phương pháp luận là khoa học. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát
triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ
thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng.
Phép biện
chứng duy tâm của Hêghen có tính mâu thuẫn giữa thế giới quan và
phương pháp luận.
- Phép
biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết
học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong
phép biện chứng duy tâm của Hêghen để xây dựng
phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và
về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
Phép biện
chứng duy vật của Mác – Ăngghen đã có sự thống nhất giữa thế giới
quan duy vật và phương pháp luận khoa học...
II. TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác –
Lê nin
a.
Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
- Điều kiện kinh tế - xã
hội
Chủ nghĩa Mác và triết học Mác ra đời vào những năm 40 thế kỷ XIX. Đây
là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển
mạnh mẽ trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp. Cách mạng
công nghiệp không những đánh dấu sự chuyển biến từ nền sản xuất thủ công sang đại
công nghiệp mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, nhất là sự hình thành
và phát triển của giai cấp vô sản trong quá trình đấu tranh chống lại giai
cấp tư sản.
- Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời dựa trên sự kế thừa tinh hoa di sản
lý luận của nhân loại trong đó trực tiếp là Triết học cổ điển Đức, Kinh tế
chính trị học cổ điển Anh và Chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp.
+ Triết học cổ điển
Đức với các đại biểu xuất sắc là L.Phơbách (Ludwig Andreas
Feuerbach, 1804 – 1872) và G.W.Ph.Hêghen (Georg Wilhelm Friedrich Hegel, 1770
1831) đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận
triết học của chủ nghĩa Mác.
+ Kinh tế chính trị
cổ điển Anh với các đại biểu tiêu biểu như
A.Smí(Adam Smith, 1723 – 1790, người Scotland), D.Ricácđô(David Ricardo, 1772
– 1823, nhà kinh tế hoc người Anh) đã góp phần tích cực vào sự hình thành
quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác. C.Mác đã kế thừa những yếu tố hợp
lý trong học thuyết giá trị và những tư tưởng tiến bộ của các nhà cổ điển, giải
quyết được những bế tắc mà các nhà cổ điển không thể vượt qua để xây dựng lý luận
giá trị thặng dư, luận chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản
và nguồn gốc kinh tế của sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời
khách quan của chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng không tưởng
đã có quá trình phát triển lâu dài và đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX. Các
đại biểu xuất sắc như: H.Xanh Ximông (Henri Saint Simon, 1976 – 1725, người
Pháp), S.Phuriê (Charles Fourier,1772 – 1837, người Pháp), R.Ôoen (Robert
Owen, 1771 – 1858, người Anh) đã chỉ ra những mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa
tư bản, sự đối lập giữa tư bản và lao động.
- Tiền đề khoa học tự
nhiên
Chủ nghĩa duy vật biện
chứng của C.Mác là kết quả của sự tổng kết những thành tựu khoa học của nhân
loại, nhất là ba phát minh trong khoa học tự nhiên:
+ Định luật bảo toàn và
chuyển hóa năng lượng.
+ Thuyết tế bào Học
thuyết tế bào học.
+ Thuyết tiến hóa.
Như vậy, sự ra đời của
chủ nghĩa Mác, triết học Mác là quá trình hợp quy luật của sự phát
triển xã hội, nó vừa là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội đương thời,
của tri thức nhân loại trong các lĩnh vực khoa học, vừa là sản phẩm năng lực tư
duy và tinh thần nhân văn của những người sáng lập ra nó.
- Nhân tố chủ
quan trong sự hình thành triết học Mác
Triết học Mác xuất hiện không chỉ là kết quả của sự vận động
và phát triển có tính quy luật của các nhân tố khách quan mà còn được hình
thành thông qua vai trò của nhân tố chủ quan. Thiên tài và hoạt động thực tiễn
của C.Mác và Ph.Ăngghen, lập trường giai cấp công nhân và tình cảm đặc biệt của
hai ông đối với nhân dân lao động, hoà quyện với tình bạn vĩ đại của hai nhà
cách mạng đã kết tinh thành nhân tố chủ quan cho sự ra đời của triết học Mác.
C.Mác và Ph.Ăngghen đều xuất thân từ tầng lớp trên của xã
hội đương thời, nhưng hai ông đều tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trên
trên lĩnh vực tư tưởng (Báo chí) đến tham gia phong trào đấu tranh của
công nhân, tham gia thành lập và hoạt động trong các tổ chức của công nhân... Sống
trong phong trào công nhân, chứng kiến sự bất công giữa ông chủ tư bản và người
lao động làm thuê C.Mác và Ph.Ăngghen đã đứng về phía những người cùng khổ, đấu
tranh vì lợi ích của họ, trang bị cho họ một học thuyết khoa học để nhận thức và cải
tạo thế giới.
b. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của Triết
học Mác
- Thời kỳ hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghĩa duy
tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản (1841 -
1844)
- Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển toàn diện lí luận
triết học (1848 - 1895).
c. Thực
chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện
- C.Mác và
Ph.Ăngghen, đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của chủ nghĩa duy vật
cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng duy tâm, sáng tạo
ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- C.Mác và Ph.
Ăngghen đã vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch
sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội dung chủ yếu của bước
ngoặt cách mạng trong triết học.
- C.Mác và Ph. Ăngghen đã bổ sung những đặc tính mới vào triết học, sáng
tạo ra một triết học chân chính khoa học - triết học duy vật biện chứng
d. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học
Mác
- Hoàn cảnh lịch sử V.I.Lênin phát triển
triết học Mác
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển
sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ
nghĩa tư bản ngày càng được bộc lộ rõ nét, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở
nên gay gắt. Các nước tư bản chia nhau thị trường thế giới và gây ra cuộc Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Tại các nước thuộc địa, cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc tạo nên sự thống nhất giữa cách mạng giải phóng dân tộc
với cách mạng vô sản mà trung tâm là Cách mạng Tháng Mười Nga. Sau khi
Ph.Ăngghen qua đời, các phần tử cơ hội trong Quốc tế II tìm mọi cách nhằm xuyên
tạc chủ nghĩa Mác. Trước tình hình đó đòi hỏi V.I.Lênin phải tiến hành đấu
tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên,
nhất là trong vật lý học, có nhiều phát minh khoa học làm đảo lộn quan niệm
siêu hình về vật chất và vận động, gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan
trong triết học. Chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tình trạng khủng hoảng này để tấn
công và bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Trong hoàn cảnh đó, V.I.Lênin tiến hành đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật. Vai
trò của V.I Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
- Quá trình bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác chia thành ba
thời kỳ:
+ Giai đoạn 1893-1907. Là thời kỳ V.I.Lênin tập trung chống lại phái Dân túy.
+ Giai đoạn sau Cách Mạng Tháng Mười 1917-1924. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công mở ra thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới, nảy sinh những nhu cầu mới về lý luận mà thời
C.Mác, Ph.Ăngghen chưa đặt ra. Đối tượng và chức năng của triết học Mác –
Lênin.
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác –
Lênin
a. Khái niệm triết học Mác – Lênin
Triết học Mác - Lênin là
hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách
mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ
trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học Mác - Lênin là
triết học duy vật biện chứng theo nghĩa rộng. Đó là hệ thống quan điểm
duy vật biện chứng cả về tự nhiên, xã hội và tư duy; là sự thống nhất hữu cơ giữa
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong triết học Mác
- Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau. Với
tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác - Lênin là hình thức phát triển cao
nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học - chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác - Lênin là hình thức
cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học - phép biện chứng duy vật.
b. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Triết học Mác - Lênin
xác định đối tượng nghiên cứu là giải
quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và
nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy. Do giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học trên lập
trường duy vật biện chứng nên triết học Mác - Lênin chỉ ra các quy luật vận động,
phát triển chung nhất của thế giới - cả trong tự nhiên, trong lịch sử xã hội và
trong tư duy. Triết học Mác - Lênin đồng thời giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Cả thế giới khách quan, quá trình nhận thức và tư duy của con người đều tuân
theo những quy luật biện chứng. Các quy luật biện chứng của thế giới về nội
dung là khách quan nhưng về hình thức phản ánh là chủ quan. Biện chứng chủ quan
là sự phản ánh của biện chứng khách quan.
c. Chức năng của triết
học Mác – Lênin
- Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ
những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới.
Thế giới quan duy vật biện
chứng có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng cho con người nhận thức đúng đắn
thế giới hiện thực.
Thế giới quan duy vật biện
chứng còn giúp con người hình thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động.
Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình.
Thế giới
quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người.
- Chức
năng phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát
có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận
về hệ thống phương pháp. Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội
và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Triết học Mác - Lênin là thế
giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho con người trong nhận thức
và thực tiễn.
Triết học Mác - Lênin là cơ sở
thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng
phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại phát triển mạnh mẽ.
Trong thời đại ngày nay, xã hội đã có nhiều đổi khác so với
những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước. Xã hội hiện đại bị chi phối bởi đặc điểm
của thời đại: cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ, nền kinh tế tri thức ở các nước phát
triển, xu hướng đối thoại thay cho xu hướng đối đầu, những điều chỉnh của chủ
nghĩa tư bản hiện đại phần nào “làm dịu” mâu thuẫn giai cấp, sự xung đột về
giai cấp vẫn còn song không gay gắt như thế kỷ XIX - XX, thay vào đó là sự xung
đột về kinh tế, sắc tộc, tôn giáo giữa các quốc gia, khu vực. Những mâu thuẫn
xã hội trong xã hội hiện đại tiềm ẩn khả năng những biến động xã hội theo chiều
hướng tiến bộ dưới hình thức cải tổ, cải cách, đổi mới như ở các nước xã hội chủ nghĩa trước
đây và những hình thức hợp tác mới trên cơ sở các lực lượng xã hội có thể chấp
nhận được ở các nước theo các xu hướng chính trị khác nhau hiện nay.
Vì lợi ích chung của toàn thế giới, các nước có chế độ xã
hội và chính trị khác nhau vẫn có thể thông qua các tổ chức quốc tế, đối thoại,
hòa giải những tranh chấp về kinh tế, lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên thiên
nhiên,.. và những bất đồng
khác. Xu hướng đối thoại, hòa giải đang là xu hướng chủ đạo hiện nay. Các cuộc
chiến tranh dưới màu sắc dân tộc, tôn giáo, nhân quyền dưới chiêu bài “nhân đạo”,
chống vũ khí hóa học, vũ khí sinh học đang bị các thế lực tiến bộ lên án, phản
đối.
Xu hướng giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia dân tộc,
không phụ thuộc và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đấu tranh cho
dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội đang diễn ra mạnh mẽ, ngày càng tỏ ra chiếm
ưu thế.
Các quốc gia, dân tộc sẽ đi tới một xã hội dân chủ, tự
do, công bằng, văn minh theo cách đi của mình thông qua các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế và khoa học - công nghệ. Và do đó, dù không có các cuộc cách mạng xã hội
điển hình như đã từng diễn
ra trong lịch sử, thì các quốc gia dân tộc trên thế giới sẽ phát triển dần dần
theo hướng thay đổi từng bộ phận, từng yếu tố, lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Thay đổi trước hết về lực lượng sản xuất do cách mạng
khoa học - công nghệ mang lại, rồi đến thay đổi quan hệ sản xuất,
từ đó dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội tức cơ sở
hạ tầng, và do đó thay đổi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội, dẫn đến thay đổi toàn bộ xã hội.
Trong thời đại ngày nay, theo nguyên lý về sự phát triển của triết học Mác, khó có
thể để bùng nổ những cuộc cách mạng xã hội điển hình như cách mạng tư sản ở
châu Âu thế kỷ XVII – XVIII, cách mạng Tháng Mười ở Nga năm 1917… Cách mạng xã
hội sẽ diễn ra dưới hình thức thay đổi dần dần các yếu tố, lĩnh vực của đời sống
xã hội.Xã hội sau sẽ phát triển, tiến bộ hơn xã hội trước.
Triết học Mác - Lênin là cơ sở
lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và sự
nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét