Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Thứ Năm, 24 tháng 6, 2021

Chương II. Chủ nghĩa duy vật biện chứng

 

I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất

a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về phạm trù vật chất

Vật chất là phạm trù triết học đã có lịch sử trên hai ngàn năm năm gắn liền với sự hình thành và phát triển của triết học. Đó là vấn đề con người tìm cách trả lời câu hỏi vật chất, thế giới vật chất là gì và con người có thể nhận thức được vật chất và thế giới vật chất hay không?

Do những điều kiện lịch sử nhất định khuynh hướng chung của triết học trước C. Mác đã đặt ra và tìm cách giải quyết vấn đề “Bản nguyên của thế giới". Đó là vấn đề nguồn gốc đầu tiên là cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.

- Chủ nghĩa duy tâm coi bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi sự tồn tại (tự nhiên – xã hội và tư duy) là tinh thần. Vật chất chỉ là sản phẩm của bản nguyên tinh thần. Ví dụ: Bản nguyên tinh thần theo Platôn (nhà triết học duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại) là “ý niệm”, Hêghen (nhà triết học duy tâm khách quan triết học cổ điển Đức) là “ý niệm tuyệt đối”; Béccơly (nhà triết học duy tâm chủ quan thời cận đại) là cảm giác chủ quan của con người. Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan của vật chất, coi vật chất chỉ là sản phẩm của các lực lượng siêu nhiên và ý muốn chủ quan của con người.

- Chủ nghĩa duy vật trước Mác coi bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi sự tồn tại (tự nhiên – xã hội và tư duy) là thực thể vật chất cụ thể – cái bản nguyên vật chất, tạo nên mọi sự vật, hiện tượng và những thuộc tính của chúng. Ví dụ: trong triết học Trung quốc cổ đại đã coi vũ trụ được hình thành bởi thái cực, ngũ hành; triết học Hy lạp cổ đại theo Talét là nước; Anaximen là không khí; Hêracơlít là lửa và Lơxíp và Đêmôcrít là nguyên tử,...

- Thuyết nguyên tử cổ đại là một bước phát triển mới của chủ nghĩa duy vật trước Mác, nó mang tính khái quát và trừu tượng hơn; nhưng do những điều kiện hạn chế có tính chất lịch sử, nên nó cũng chỉ là phỏng đoán giả định và không thoát khỏi tình trạng qui vật chất thành dạng vật thể.

b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất

Đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, vật lý học đã có những phát minh quan trọng đem lại những hiểu biết mới, sâu sắc hơn về nguyên tử, về cấu trúc thế giới vật chất đã phê phán quan niệm về nguyên tử trước đó:

Khái niệm nguyên tử là thành phần vô hình của vật chất do các nhà triết học Ấn Độ và Hy Lạp đề xuất ra đầu tiên, xuất phát từ tiếng Hy Lạp (atomos), "vô hình" có nghĩa là không cắt được, hoặc vô hình, một thứ không thể chia cắt được.

(1) 1895 Rơnghen phát hiện ra tia X (đó là sóng điện từ có bước sóng rất ngắn...).

(2) 1896 Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Đã chứng tỏ rằng nguyên tử không phải là bất biến, là cái không phải là không phân chia được và không thể chuyển hóa cho nhau, mà là cái có thể phân chia và giữa chúng có khả năng chuyển hóa cho nhau.

(3) 1897 Tômxơn phát hiện ra điện tử. Điện tử là một trong những yếu tố tạo nên nguyên tử. Cho nên nguyên tử không phải là đơn vị cuối cùng tạo nên thế giới vật chất.

(4) 1901 Kaufman phát hiện ra hiện tượng khi vận động khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng. Như vậy đã bác bỏ quan niệm cho rằng khối lượng là bất biến, v.v...

(5) Năm 1898 - 1902, nhà nữ vật lý học Ba Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với chồng là Pie, nhà hoá học người Pháp, đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlônirađium.

Những phát hiện vĩ đại đó chứng tỏ rằng, nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất mà nó có thể bị phân chia, chuyển hoá...

Trước những phát hiện trên đây của khoa học tự nhiên, không ít nhà khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình đã hoang mang, dao động, hoài nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng, nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã, bị “mất đi”. Đây chính là cuộc khủng hoảng vật lý học hiện đại mà thực chất của nó, như V.I.Lênin khẳng định: “là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri”[1].

Tình hình trên đã làm cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Để khắc phục cuộc khủng hoảng này; V.I.Lênin cho rằng: “Tinh thần duy vật cơ bản của vật lý học, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên hiện đại, sẽ chiến thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”[2].

c. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất

Trong tác phm Ch nghĩa duy vt ch nghĩa kinh nghim phê phán, V.I.Lênin đưa ra định nghĩa vt cht: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”[3]. Đây là một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà cho đến nay được các nhà khoa học hiện đại coi là một định nghĩa kinh điển.

- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:

+ Thứ nhất, cần phi phân bit “vt cht với cách phm trù triết hc với những dng biu hin cthể ca vt cht. Đó là kết quả ca sự khái quát hóa, trừu tượng hóa nhng thuộc tính, nhng mi liên hệ vn ca các s vt, hin ng nên phn ánh cái chung, hn, tn, không sinh ra, không mt đi; còn tt c nhng s vt, hin tượng chỉ những dạng biểu hin c th ca vt cht nên quá trình phát sinh, phát triển chuyn hóa. vy, không thể đồng nht vt cht với mt hay mt số dng biu hin c th hoặc thuộc tính ca vt cht

+ Thứ hai, đặc trưng quan trọng nhất ca vt cht thuc tính khách quan, tức thuc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lp, không phụ thuc vào ý thức con người, con người nhn thức được hay không.

+ Thứ ba, vt cht (dưới hình thức tn ti cụ th ca nó) cái thể gây nên cm giác con người khi trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan ca con người. Ý thức của con người s phn ánh đối với vt cht, còn vt cht là cái được ý thức phn ánh.

- Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của Triết học Mác - Lênin.

- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

- Khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất.

- Định hướng cho phát triển khoa học.

- Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội – đó là các điều kiện sinh hoạt vật chất và các quan hệ vật chất và các qui luật khách quan của xã hội. Đó là việc phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử về các qui luật trong sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội và trong đời sống tinh thần của xã hội...

d. Các hình thức tồn tại của vật chất

- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là tuyệt đối, vĩnh viễn (bao gồm mọi sự biến đổi: cơ giới, vật lý, hóa hc, sinh học, hội, tư duy...). Vật chất tồn tại bằng vận động (luôn luôn biến đổi), không có vật chất tồn tại mà không vận động.

- Đứng im là tương đối, xét trong mối quan hệ cụ thể, hoàn cảnh, thời điểm cụ thể giữa một số sự vật vơi nhau.....

- Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất (tồn tại ở đâu, như thế nào, bao lâu...) nên cũng khách quan, vĩnh cữu, vô tân, vô hạn

e. Tính thống nhất vật chất của thế giới

- Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức con người phản ánh.

- Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm của vật chất, cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.

- Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau, về thực chất, đều là những quá trình vật chất.

2. Ý thức, nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức

a. Ý thức

Trong lịch sử triết học có rất nhiều quan niệm khác nhau về ý thức.

- Triết học duy tâm trước triết học C. Mác

Ý thức là hoạt động tinh thần của con người, nhưng không phải là năng lực phản ánh của bộ não con người về thế giới. Đó là sự vận động của linh hồn (Lực lượng siêu nhiên) hoặc ý chí chủ quan của con người, cái có trước quyết định thế giới và hoạt động của con người.

- Triết học duy vật trước triết hoc C. Mác

Ý thức là hoạt động tinh thần của con người. Đó là năng lực phản ánh của bộ não người về thế giới, nhưng họ cũng cho rằng ý thức còn có thể tồn tại ở một số loài động vật có hệ thần kinh trung ương và có hoạt động tâm sinh lý như con người. Quan niệm này còn tồn tại cho đến ngày nay trong một số các khoa học cụ thể như: ngôn ngữ học, tâm lý học, sinh học…

- Triết học Mác – Lênin

Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người hoặc là hình ảnh chủ quan của bộ não con người về thế giới khách quan. Đó là năng lực phản ánh của bộ não người về thế giới. Bao gồm năng lực tái hiện, biến đổi hình ảnh của thế giới trong bộ não người thể hiện tính mục đích của hoạt động người.

Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định cả v nội dung và hình thức biểu hiện đã được cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu…) của con người. Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”[4].                                                

b. Nguồn gốc của ý thức

Ý thức có nguồn gốc từ vật chất. Đó là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội

- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức

Thể hiện qua sự hình thành con người và năng lực phản ánh của bộ não con người là một quá trình lịch sử tự nhiên.

+ Phản ánh là năng lực tái hiện và biến đổi bởi sự tác động giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới. Phản ánhmột quá trình như:  cơ, lý hóa, sinh (phản ánh tâm, sinh lý của động vật cấp cao và sự chuyển hóa nó làm xuất hiện phản ánh tâm lý và ý thức của con người).

+ Bộ não người và ý thức. Ý thức là thuộc tính của bộ não người nhưng không đồng nhất với bộ não người. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức thông qua năng lực phản ánh của bộ não người về hiện thực.

Bộ não người với hệ thần kinh cao cấp có khả năng phản ánh tích cực, sáng tạo (tiếp nhận thông tin có chủ định qua các giác quan, lưu giữ, xử lý, khái quát, hình thành tri thức, hình ảnh của thế giới khách quan)

Thế giới khách quan tác động vào bộ não người thông qua các giác quan, là nguồn gốc, là cơ sở hình thành ý thức, tạo nên hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan trong bộ não người.

- Nguồn gốc xã hội của ý thức (vai trò của lao động)

+ Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điu tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên làm xuất hiện quan hệ giao tiếp xã hội hình thành ngôn ngữ…

+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất (Vỏ vật chất của ý thức) chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện. Các hình thức của ngôn ngữ: Ngôn ngữ thân thể(hành vi), tiếng nói, ký hiệu nói chung, chữ viết, ký hiệu khoa học...

c. Bản chất và kết cấu của ý thức

- Bản chất của ý thức

Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, không phải là sự sao chép đơn giản, máy móc về thế giới.

Tính năng động, sáng tạo của ý thức một mặt, thể hiện khả năng phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng; mặt khác ý thức con người có khả năng biến đổi hình ảnh của sự vật trong đầu óc của mình, tạo ra mô hình mới để từ đó biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn.

Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn lin với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác động của các quy luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điu kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

- Kết cấu của ý thức

+ Nếu tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản nhất hợp quá trình nhận thức thì ý thức bao gồm: Tri thức, tình cảm và ý chí.

Tình cảm là hoạt động tâm sinh lý biểu hiện cảm xúc của con người… dưới các hình thức khác nhau như niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc, khổ đau…

Ý chí thể hiện sức mạnh của con người trong quá trình thực hiện mục đích. Đó là nghị lực, bản lĩnh của con người…

Tri thức là toàn bộ sự hiểu biết của con người về thế giới.

Tri thức là yếu tố quan trọng nhất của ý thức.

+ Nếu tiếp cận kết cấu của ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, cần nhận thức được các yếu tố: Tự ý thức, tiềm thức và vô thức.

Tự ý thức là năng lực, phẩm chất giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động của cá nhân hay còn gọi là nhân cách.

Đó là năng lực tự ý thức vể bản thân, năng lực tự khẳng định và điều chỉnh hành vi của cá nhân trong quan hệ xã hội.

Tiềm thức là sự hoạt động của ý thức dưới dạng tiềm năng, có tính năng động sáng tạo phụ thuộc vào những điều kiện khách quan nhất định…

Vô thức là hiện tượng tâm lý, là trực giác nằm ngoài sự kiểm soát của lý trí dưới các hình thức khác nhau…

3. Biện chứng giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn xã hội

Vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn được thể hiện thông qua các nhân tố vật chất (Nhân tố khách quan) như điều kiện hoàn cảnh vật chất, hoạt động vật chất và các qui luật khách quan của xã hội và các nhân tố tinh thần (Nhân tố chủ quan) như tình cảm, ý chí, tư tưởng, các hình thái của ý thức xã hội như chính trị, pháp quyền, đạo đức…

a. Vai trò của vật chất đối với ý thức (Nhân tố khách quan đối với

nhân tố chủ quan).

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức, còn ý thức là sự phản ánh đối với vật chất của bộ não người bao gồm những luận điểm:

- Thứ nhất, mọi sự biến đổi của nhân tố vật chất tất yếu dẫn đến bị biến đổi của nhân tố tinh thần. Nhân tố tinh thần là sự phản ánh hiện thực khách quan thông qua hoạt động thực tiễn về nguyên tắc, nó có nguồn gốc và bị quyết định bởi nhân tố vật chất.

Ví dụ: phát triển kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt nam đòi hỏi đường lối chính sách của đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vận dụng linh hoạt các qui luật của kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam...

- Thứ hai, sự biến đổi của nhân tố vật chất tất yếu dẫn đến sự biến đổi của nhân tố tinh thần. Xét cho cùng sự biến đổi của nhân tố tinh thần sẽ phù hợp với sự biến đổi của nhân tố vật chất…

Ví dụ: Xã hội hóa về giáo dục, y tế và và hóa hiện nay ở Việt Nam là một khuynh hướng tất yếu của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam...

- Thứ ba, mọi sự biến đổi của đời sống xã hội đều phụ thuộc vào điều kiện vật chất hoàn cảnh vật chất, hoạt động vật chất và các qui luật khách quan của đời sống xã hội.

Ví dụ: Sự phát triển kinh tế – xã hội hiện nay ở Việt Nam xét cho cùng đều do sự quyết định của các nhân tố vật chất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của sự nghiệp đổi mới đất nước...

b. Vai trò của ý thức đối với vật chất (Nhân tố chủ quan đối với nhân tố khách).

- Thứ nhất,thức không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản về hiện thực khách quan…sự phản ánh của ý thức có tính năng động và sáng tạo.

- Thứ hai, ý thức có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mục đích, phương phương hướng hoạt động nói chung của con người. Đó là quá trình vận dụng các qui luật khách quan trong hoạt động thực tiễn xã hội. Tri thức khoa học là một nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.

- Thứ ba, trong những điều kiện khách quan nhất định, nhân tố tinh thần có thể có ý nghĩa quyết định đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Đó là khi con người có khả năng phát huy những năng lực sáng tạo trong sự kết hợp của các nhân tố tinh thần:  niềm tin…chí, tri thức phù hợp với những điều kiện khách quan nhất định...

c. Nguyên tắc phương pháp luận và thực tiễn   

- Thứ nhất, nguyên tắc xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan

Trong hoạt động nhận thức phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan chứ không xuất phát từ ý chí chủ quan. Đó là trên cơ sở điều kiện hoàn cảnh khách quan, hoạt động vật chất và các qui luật khách quan để xác định mục đích, phương hướng hoạt động nói chung của con người. Đó là nhận thức đúng vai trò của các nhân tố vật chất. Đặc biệt là vai trò của các qui luật khách quan trong hoạt động thực tiễn.

- Thứ hai, nguyên tắc phát huy tính năng động của nhân tố chủ quan

Phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Trong việc xác định mục đích, phương pháp tổ chức thực hiện…  Đặc biệt, trong việc đưa ra đường lối chính sách phát triển kinh tế - xã hội của một chính đảng, nhà nước. Sức mạnh của nhân tố tinh thần còn phụ thuộc vào việc phát huy vai trò của nhân tố con người trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của cá nhân và xã hội…

- Thứ ba, phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm, giáo điều và duy ý chí chủ quan trong việc đưa ra đường lối chính sách phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.

Chủ nghĩa kinh nghiệm là khuynh hướng tuyệt đối hóa tri thức kinh nghiệm, không thấy vai trò của lý luận khoa học trong hoạt động thực tiễn xã hội.

Chủ nghĩa giáo điều là khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận không thấy được điều kiện lịch sử của hoạt động thực tiễn xã hội.

Chủ nghĩa chủ quan duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối hóa ý chí chủ quan, tư tưởng nóng vội bất chấp qui luật…

II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật

a. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan

- Biện chứng là quan điểm, phương pháp nghiên cứu (Xem xét) sự vật, hiện tượng của thế giới trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh, tồn tại và chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng...

Ví dụ: Nghiên cứu sự tồn tại vận động và phát triển của xã hội phải xem xét xã hội là một chỉnh thể của những mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội biểu hiện qua các qui luật khách quan của xã hội...

Phương pháp biện chứng cho phép không chỉ nhận thức sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, vừa thấy bộ phận vừa thấy toàn thể...  Bên cạnh quan niệm  sự vật là A hoặc là B hoặc là C còn có quan niệm  A vừa là  B vừa là C… tùy theo những mối liên hệ nhất định.

Ví dụ: A là sinh viên xét về trình độ học vấn, A là con người xét về tộc loại, A là động vật xét về mặt sinh học...

- Biện chứng bao gồm: Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất (Tự nhiên và xã hội); Biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của con người

b. Khái niệm phép biện chứng duy vật

- Theo quan điểm của các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin:

+ Ph.Ăngghen: (1).“Phép biện chứng duy vật là khoa học về các qui luật phổ biến của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy”, (2). “Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển”.

+ V.I.Lênin: (3). “Phép biện chứng duy vật là học thuyết về sự phát triển”

 - Về đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật

Khác với phép biện chứng tự phát cổ đại và phép biện chứng duy tâm của Hê ghen phép biện chứng duy vật bao gồm sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Bởi vì, mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được luận giải trên cơ sở khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của khoa học tự nhiên trước đó.

- Về vai trò, phép biện chứng duy vật, đã kế thừa và phát triển phép biện chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn và là một hình thức tư duy hiệu quả quan trọng nhất đối với khoa học.

- Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vậtnghiên cứu trạng thái tồn tại có tính quy luật phổ biến nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vấn đề này thể hiện trong các câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn tại trong trạng thái liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau và luôn vận động, phát triển hay trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát triển?... Để trả lời câu hỏi trên, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản.

2. Nội dung của phép biện chứng duy vật

a. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật

- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Đối lập với quan điểm biện chứng, quan điểm siêu hình coi sự tồn tại của các sự vật trong thế giới  là những cái tách rời nhau, giữa chúng không có sự liên hệ, tác động qua lại, không có sự chuyển hóa lẫn nhau và nếu có chỉ là sự liên hệ có tính ngẫu nhiên, gián tiếp...Đó là phương pháp tư duy siêu hình nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối hoặc nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại, nếu có sự biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng. Hạn chế: phiến diện, cứng nhắc, không đúng như sự vật đang tồn tại. Ngược lại phép biện chứng duy vật coi sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của thế giới đều thông qua những mối liên hệ nhất định, mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là phương pháp biện chứng nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc lẫn nhau hoặc nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.

+ Khái niệm mối liên hệ:

Mối liên hệ dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một sự vật, hiện tượng  hoặc giữa các sự vật, hiện tượng là cơ sở cho sự tồn tại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng của thế giới. Ví dụ: 1. Mối liện hệ giữa mặt sinh học và xã hội trong sự tồn tại, vận động và phát triển của con người. Bởi vì con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và xã hội. ví dụ 2. Nghiên cứu nguồn gốc, động lực cơ bản và phổ biến trong sự tồn tại vận động phát triển của xã hội là nghiên cứu và giải quyết các mâu thuẫn của xã hội về kinh tế, chính trị - xã hội. ví dụ 3. Mối liên hệ giữa các thành phần kinh tế trong cơ sở kinh tế hiện nay ở nước ta trong nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.

+ Tính chất của mối liên hệ

Tính khách quan của mối liên hệ, tức là cái vốn có của các sự vật hiện tượng độc lập và không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người; con người có thể nhận thức và vận dụng trong hoạt động thực tiễn. Ví dụ: 1. Nghiên cứu sự vận động và phát triển của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta về nguyên tắc phải thừa nhận tính khách quan của các qui luật nền kinh tế thị trường. Đó là phải nhận thức đúng các qui luật của kinh tế thị trường, vận dụng linh hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt nam trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ví dụ 2. Vấn đề xã hội hóa giáo dục, y tế, văn hóa hiện nay ở Việt Nam là một xu hướng tất yếu của của quá trình đa dạng hóa các thành phần kinh tế vào lĩnh vực giáo dục, y tế và văn hóa.v.v...

Tính phổ biến của mối liên hệ, tức là trong sự tồn tại của các sự vật và hiện tượng của thế giới không phải là sự tồn tại tách rời và cô lập lẫn nhau, mà chúng là một thể thống nhất. Ví dụ: 1. Nghiên cứu các qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật như qui luật lượng chất, mâu thuẫn, phủ định và phủ định là các qui luật phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy... Ví dụ 2. Mâu thuẫn có tính phổ biến. Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực cơ bản và phổ biến của mọi sự phát triển.v.v...

Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ, tức là các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau gắn liền với những điều kiện lịch sử nhất định. Ví dụ; 1. Mối liên hệ khách quan chủ quan; bên trong bên ngoài; trực tiếp gián tiếp; cơ bản không cơ bản, cái chung cái riêng; bản chất hiện tượng… điều quan trọng là nghiên cứu tính cụ thể của những mối liên hệ trong hiện thực phải gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể. Ví dụ 2. Tính toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới hiện nay, xét cho cùng là sự vận dụng các qui luật của nền kinh tế thị trường trong thời đại của cuộc cách mạng công nghệ nhưng phải phù hợp với tính lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia nên có tính đa dạng và phong phú...

+ Ý nghĩa về phương pháp luận:

Xuất phát từ tính khách quan, phổ biến và tính đa dạng phong phú của mối liên hệ đã cho chúng ta thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích về sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật khác. Đồng thời phải nghiên cứu tất cả những mặt, những yếu tố, những mối liên hệ vốn có của nó. Qua đó để xác định được mối liên hệ bên trong, bản chất,... để từ đó có thể nắm được bản chất, qui luật của sự vật và hiện tượng. Ví dụ; 1. Nghiên cứu sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở Việt Nam phải nghiên cứu  vai trò của các quan hệ xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội để thấy được vai trò của từng lĩnh vực... Đặc biệt là lĩnh vực kinh tế với sự vận động phát triển của xã hội Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước... Ví dụ 2. Nghiên cứu cơ sở hạ tầng hiện nay ở nước ta một mặt phải thấy được tính đa dạng hóa của các thành phần kinh tế, mặt khác, phải thấy dược vai trò của thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cơ sở kinh tế hiện nay ở nước ta.

Xuất phát từ tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ đã cho chúng ta thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể.v.v...

Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi khi nghiên cứu sự vật phải thấy sự tồn tại vận động và phát triển của bản thân các sự vật và hiện tượng là một quá trình có tính giai đoạn, tính lịch sử cụ thể. Cho nên khi phân tích tính toàn diện về các mối liên hệ của sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ cụ thể, với những điều kiện lịch sử cụ thể của các mối quan hệ đó. Ví dụ1. Vận dụng các qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, qui luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trức thượng tầng hiện nay ở Việt Nam phải trên cơ sở điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.v.v...

- Nguyên lý về sự phát triển

+ Khái niệm phát triển:

Phát triển dùng để chỉ là quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là khuynh hướng chung trong sự vận động của các sự vật, hiện tượng.

Ví dụ: 1. Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của xã hội là một quá trình vận động từ thấp đến cao. Đó là từ xã hội nguyên thủy đến xã hội tư sản và xã hội chủ nghĩa hiện nay. 2. Sự xuât hiện con người là một tiến trình lịch sử tự nhiên và tiến trình lịch sử xã hội. 3. Sự vận động và phát triển của khoa học công nghiệp từ cách mạng 1.0 đến cách mạng 4.0...

Phát triển thông qua vận động nhưng không đồng nhất với sự vận động của các sự vật, hiện tượng. Sự vận động của sự vật, hiện tượng có thể chỉ là sự thay đổi chuyển hóa nói chung, nhưng có thể bao hàm sự hoàn thiện và phát triển. Phát triển là khuynh hướng chung trong sự vận động của các sự vật, hiện tượng.

Tiêu chuẩn của sự phát triển là sự xuất hiện cái mới, nhưng không đông đồng nhất với cái mới nói chung mà là cái mới phù hợp với qui luật vận động và phát triển của sự vật. Ví dụ: Vấn đề xã hội hóa giáo dục hiện nay ở Việt nam xuất hiện nhiều nhân tố mới nhưng không phải tất cả các nhân tố mới đó đều là tiêu chuẩn của sự phát triển giáo dục.

+ Tính chất của sự phát triển:

Tính khách quan: Khuynh hướng đi lên, hoàn thiện hơn là tất yếu của sự tồn tại, vận động của các sự vật. Phát triển là khuynh hướng chung trong sự vận động của các sự vật, hiện tượng không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Con người có thể nhận thức và vận dụng các qui luật khách quan phục vụ cho lợi ích của con người.                                    

Tính phổ biến: với mọi sự vật đều tồn tại, vận động và phát triển theo khuynh hướng ngày càng tiến bộ, hoàn thiện hơn. Phát triển là khuynh hướng chung trong sự vận động của các sự vật, hiện tượng của thế giới trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Tính đa dạng, phong phú, phức tạp: trong khuynh hướng vận động, phát triển của các sự vật luôn chứa đựng những khó khăn, tiến trình quanh co, dích dắc, thất bại tạm thời … chứ không phải đơn giản, thẳng tắp phát triển đi lên được thể hiện dưới các hình thức khác nhau.

+ Ý nghĩa phương pháp luận:

Quan điểm phát triển với yêu cầu khi phân tích một sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, phải phát hiện được xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng trong một quá trình từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.

Quan điểm phát triển còn đòi hỏi phải nhận thức đúng về cái mới, về tiêu chuẩn của sự phát triển. Sự ra đời của cái mới là một quá trình, trong đó yếu tố kế thừa những mặt tích cực của cái cũ là điều kiện tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của cái mới. Tiêu chuẩn của sự phát triển là cái mới nhưng không phải bất kỳ một cái mới nào, là cái mới phù hợp với qui luật khách quan. Kế thừa là một đặc điểm quan trọng nhất của mọi sự phát triển. Đó là cái mới kế thừa những đặc điểm hoàn thiện của cái cũ là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của cái mới…

b. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

Phạm trù những khái nim rng nht phn ánh nhng mt, những thuc tính, nhng mi liên hệ chung, cơ bn nhất ca các sự vt hin tượng thuc mt nh vực nhất định.

- Cái riêng và cái chung

+ Khái niệm

Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,  một quá trình nhất định.

Cái chung là phạm trù triết học dùng  để chỉ những thuộc tính, những mặt, những yếu tố, những quan hệ… tồn tại phổ biến  ở nhiều sự vật, hiện tượng.

Trong mối sự vật, ngoài cái chung còn tồn tại cái đơn nhất. Cái đơn nhất là những đặc tính, những tính chất chỉ tồn tại ở một sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.

+ Quan hệ biện chứng giữa cái riêng với cái chung:

Cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, vì nó là biểu hiện tính hiện thực tất yếu, độc lập với ý thức con người.

Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện  sự tồn tại của mình; cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng mà nó phải tồn tại trong từng cái riêng cụ thể, xác định.

Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Không có cái  riêng tồn tại độc lập, tuyệt đối tách rời cái chung mà tất yếu phải tồn tại trong  mối liên hệ với cái chung.

Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái  chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng bởi vì cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái  đơn nhất, còn cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng.

Cái riêng và cái đơn nhất có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định: Cái mới ra đời: đi từ cái đơn nhất - cái đặc thù - cái phổ biến. Cái cũ mất theo con đường chuyển hóa ngược lại.

+ Ý nghĩa phương pháp luận:

Muốn nhận thức được cái chung, phải nghiên cứu cái riêng và ngược lại muốn nhận thức được cái riêng, một mặt phải nghiên cứu cái đơn nhất, nhưng đồng thời cũng phải nghiên cứu cái chung, để thấy được vai trò quyết định của cái chung với cái riêng.

Muốn vận dụng cái chung cho từng trường hợp của cái riêng, nếu không chú ý đến những tính cá biệt và điều kiện lịch sử của cái riêng thì cũng chỉ là nhận thức giáo điều, áp dụng rập khuôn máy móc. Ngược lại, trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung, phổ biến thì hoạt động của con người cũng mang tính mù quáng, kinh nghiệm và cảm tính.

Phê phán những quan điểm phủ nhận sự tồn tại khách quan của cái chung và cái riêng, tuyệt đối hóa cái chung hoặc cái riêng, không thấy được mối quan hệ biện chứng giữa cái chung cái riêng.

- Nguyên nhân và kết quả

+ Khái niệm:

Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau tạo ra một sự biến đổi nhất định.

Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do những tác động giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng tạo nên.

Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện. Điều kiện là những yếu tố giúp nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng bản thân điều kiện không sinh ra kết quả. Nguyên cớ là cái không có mối liên hệ bản chất với kết quả.

+ Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:

Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Mối quan hệ nhân quả không chỉ đơn thuần là sự đi kế tiếp nhau về thời gian (cái này có trước cái kia), mà là mối liên hệ sản sinh: cái này tất yếu sinh ra cái kia. Chỉ có mối quan hệ tất yếu về mặt thời gian mới là quan hệ nhân quả.

Nguyên nhân thế nào thì sinh ra kết quả thế  ấy. Cùng một nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả do nhiều nguyên nhân sinh ra. Do đó, mối quan hệ nhân quả rất phức tạp. Trong trường hợp nhiều nguyên nhân cùng tham gia sinh ra một kết quả, người ta chia ra các loại nguyên nhân:  Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài; Nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp; Nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản; Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu; Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định. Nguyên nhân sinh ra kết quả, rồi kết quả lại tác động đến sự vật, hiện tượng khác và trở thành nguyên nhân sinh ra kết quả khác nữa. Do đó, sự phân biệt nguyên nhân với kết quả chỉ có tính chất tương đối. Chẳng hạn, sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh thần lại trở thành nguyên nhân làm biến đổi vật chất.

+ Ý nghĩa phương pháp luận:

Cần phải phân biệt các loại nguyên nhân và những điều kiện khách quan lịch sử cụ thể của nó, cũng như phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ.

Muốn xóa bỏ một sự vật, hiện tượng và một kết quả nào đó, thì cần loại bỏ các nguyên nhân sinh ra nó (thông qua qui luật khách quan vốn có của nó). Ngược lại, muốn làm xuất hiện một sự vật, hiện tượng và một kết quả nào đó, thì phải phát hiện nguyên nhân, tạo điều kiện cần thiết cho nguyên nhân sinh ra nó phát huy được tác dụng. Phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình về mối quan hệ nhân quả.

- Tất nhiên và ngẫu nhiên

+ Khái niệm:

Tất nhiên chỉ cái do nguyên nhân bên trong của sự vật, hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định thì nó phải xảy ra như thế, chứ không thể khác.

Ngẫu nhiên chỉ cái không do bản chất, mối liên hệ bên trong quyết định mà nó ngẫu hợp của những hoàn cảnh bên ngoài quyết định.

+ Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:

Triết học duy vật biện chứng cho rằng nếu cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật, thì cái ngẫu nhiên cũng ảnh hưởng đến sự phát triển đó, có thể làm cho tiến trình phát triển đó diễn ra nhanh hoặc chậm.

Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và có mối quan hệ thống nhất hữu cơ với nhau. Bởi vì, cái tất nhiên bao giờ cũng có ý nghĩa định hướng chung cho sự vận động và phát triển của sự vật, thông qua vô vàn những cái ngẫu nhiên. Ngược lại, cái ngẫu nhiên là các hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, xét theo những mối quan hệ nhất định.

+ Ý nghĩa phương pháp luận:

Trong hoạt động thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên, chứ không thể dựa vào cái ngẫu nhiên và dừng lại ở cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái tất yếu phải xảy ra thì ngược lại, cái ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra hoặc không.

Muốn nhận thức được cái tất nhiên, phải nghiên cứu vô số cái ngẫu nhiên. Bởi vì, cái tất nhiên thể hiện ra bên ngoài qua cái ngẫu nhiên, định hướng cho sự phát triển của mình đi qua vô số cái ngẫu nhiên.

- Nội dung và hình thức

+ Khái niệm:

Nội dung là phạm trù chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng.

Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện và phát triển của sự vật, hiện tượng ấy; là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội dung của sự vật, hiện tượng và không chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài, mà còn là cái thể hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng.

+ Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:

Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất biện chứng với nhau. Không có nội dung nào lại không có một hình thức nhất định. Cũng không có một hình thức nào lại không chứa đựng một nội dung nhất  định. Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình thức, cùng một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung.

Nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh hướng biến đổi, còn hình thức là mặt tương đối ổn định trong mỗi sự vật, hiện tượng.

Nội dung thay đổi bắt buộc hình thức phải thay đổi theo cho phù hợp nhưng không phải lúc nào cũng có sự phù hợp tuyết đối giữa nội dung và hình thức. Nội dung quyết định hình thức nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Hình thức phù hợp với nội dung thì thúc đẩy nội dung phát triển và ngược lại, hình thức không phù hợp với nội dung sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.

+ Ý nghĩa phương pháp luận:

Nội dung và hình thức luôn thống nhất với nhau nên trong hoạt động thực tiễn, cần tránh sự tách rời giữa nội dung và hình thức hoặc tuyết đối hóa một trong hai mặt đó.

Nội dung quyết định hình thức cho nên khi xem xét sự vật, hiện tượng, trước hết cần căn cứ vào nội dung của nó, muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó.

Trong hoạt động thực tiễn, cần phát huy tính tích cực của hình thức đối với nội dung trên cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức với nội dung; mặt khác cần thay đổi những hình thức không còn phù hợp với nội dung, cản trở sự phát triển của nội dung.

- Bản chất và hiện tượng

+ Khái niệm:

Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng đó.

Hiện tượng là phạm trù triết học dùng  để chỉ sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.

+ Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:

Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập trong mỗi sự vật. 

Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng biểu hiện ở chỗ: Bản chất bao giờ cũng biểu hiện ra thành những hiện tượng nhất định. Còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất  định. Không có bản chất tách rời hiện tượng cũng như không có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất nào đó.

Bản chất quyết định hiện tượng. Bản chất như thế nào thì hiện tượng như thế ấy Bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. 

Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ: Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt, phong phú và đa dạng.  Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài. Bản chất là cái tương đối ổn định, hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.

+ Ý nghĩa phương pháp luận:

Trong nhận thức, không được dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu tìm ra bản chất của sự. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức đúng được bản chất.

Bản chất phản ánh tính tất yếu, tính quy luật nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện tượng mới có thể đánh giá đầy đủ, chính xác về sự vật, hiện tượng.

- Khả năng và hiện thực

+ Khái niệm:

Khả năng là phạm trù triết học dùng  để chỉ là cái chưa có, chưa tới, nhưng sẽ có, sẽ tới trong những điều kiện nhất định.

Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ cái đang tồn tại trong thực tế. Hiện thực có hiện thực vật chất và hiện thực tinh thần. Khả năng có khả năng tất nhiên và khả năng ngẫu nhiên. Khả năng còn được chia ra: khả năng gần và khả năng xa.

+ Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:

Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, không tách rời, luôn chuyển hóa lẫn nhau. 

Khả năng trong những  điều kiện nhất  định thì biến thành hiện thực. Hiện thực mới lại mở ra khả năng mới và trong những điều kiện nhất định lại chuyển hóa thành hiện thực.

Với cùng một điều kiện nhất định có thể tồn tại một hoặc nhiều khả năng: khả năng thực tế, khả năng tất nhiên, khả năng ngẫu nhiên, khả năng gần, khả năng xa…

Khả năng biến thành hiện thực cần phải có những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan là tính tích cực xã hội của ý thức chủ thể con người để chuyển hóa khả năng thành hiện thực. Điều kiện khách quan là sự tổng hợp các mối quan hệ về hoàn cảnh, không gian, thời gian để tạo nên sự chuyển hóa đó.

+ Ý nghĩa phương pháp luận:

Khả năng và hiện thực không tách rời nhau, nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần dựa vào hiện thực để nhận thức và hành động. Cần phân biệt khả năng với cái không khả năng; khả năng với hiện thực để tránh rơi vào ảo tưởng.

Trong đời sống xã hội, để khả năng biến thành hiện thực cần phát huy tối đa tính năng động chủ quan của con người trong việc nhận thức và thực tiễn để biến khả năng thành hiện thực theo mục đích của mình.

b. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

Qui luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các sự vật và hiện tượng hoặc giữa các mặt của mỗi sự vật và hiện tượng.

Ví dụ: Qui luật đồng hóa và dị hóa, biến dị và di truyền trong sinh học hoặc qui luật giá trị, cạnh tranh trong kinh tế thị trường...

Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những qui luật phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên - xã hội và tư duy. Đó là: Qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại; Qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; Qui luật phủ định của phủ định nghiên cứu khuynh hướng của quá trình phát triển thông qua các chu kỳ vận động của các sự vật và hiện tượng, v.v..

(1). Qui luật thứ nhất, quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại (qui luật lượng chất). Qui luật lượng chất nghiên cứu cách thức của sự vận động và phát triển.

- Khái niệm chất, lượng:

+ Chất dùng đ chỉ tính quy định khách quan vn ca s vt, hin tượng; sự thống nhất hữu các thuộc tính cu thành nó, phân bit với cái khác.

+ Lượng dùng đ ch tính quy định khách quan vn ca s vt v các phương din: số lượng các yếu tố cu thành, quy mô ca sự tn ti, tốc độ, nhịp điu ca các quá trình vn động, phát trin ca sự vt.

- Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:

+ Tính thng nht giữa chất lượng trong mt sự vật

S vt, hin tượngo cũng là th thng nhất giữa hai mặt chất và lưng. Hai mặt đó không tách ri nhau mà tác động ln nhau mt cách biện chng.

Sự thay đi về lượng tt yếu sẽ dn tới sự thay đổi v cht nhưng không phi sự thay đổi v lượng bất k nào cũng dn đến sự thay đi v cht. mt giới hn nht định s thay đổi về lượng chưa dn đến sự thay đổi về cht. Giới hn s thay đổi v ng chưa làm cht thay đổi được gi độ.

Khái nim đ ch tính quy đnh, mi liên hệ thống nht giữa cht và lượng, khong giới hn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đi n bn cht ca sự vt, hin tượng. Trong giới hn ca độ, s vt, hin tượng vn còn là nó chưa chuyn hóa thành s vt, hin tượng khác.

+ Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất

Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Lượng biến đổi trong phạm vi “độ” chưa làm chất thay đổi nhưng khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện xác định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Sự thay đổi về chất gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng; là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển đồng thời là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật.

+ Quá trình chuyển a từ nhng s thay đổi v chất thành nhng sự thay đổi về lượng

Khi cht mới ra đi, sẽ tác đng tr li lượng mi. Cht mới tác đng tới lượng mới làm thay đổi kết cu, quy mô, trình đ, nhp điu ca sự vn động, phát trin ca sự vt.

Như vậy, bt kỳ sự vt, hin tượng nào cũng sự thống nhất bin chng giữa hai mt cht ợng. S thay đổi về lượng tới đim t sẽ dn đến sự thay đổi v cht thông qua bước nhy. Cht mới ra đời sẽ tác đng trở li sự thay đổi ca lưng mới. Quá trình đó liên tc din ra, to thành phương thức ph biến ca các quá trình vn đng, phát trin ca s vt, hin tượng trong tự nhiên, hi, tư duy.

- Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải thấy được sự thống nhất, mâu thuẫn giữa chất và lượng và biết tích luỹ về lượng để có biến đổi về chất.

+ Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất luôn gắn liền với những điều kiện khách quan nhất định.

(2). Qui luật thứ hai, quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập (qui luật mâu thuẫn). Qui luật mâu thuẫn nghiên cứu nguồn gốc, động lực bên trong của mọi sự vận động và phát triển

Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập thể hiện bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật - vấn đề nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển.

- Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn:

+ Mâu thuẫn dùng đ ch mi liên hệ thống nhất và đu tranh, chuyn hóa giữa các mt đối lp ca mi sự vt, hin tượng hoc gia các s vt, hin tượng với nhau hoặc là sự liên hệ giữa các mặt đối lập trong sư vậ, hiện tượng hay một chỉnh thể thống nhất...

+ Mt đối lp dùng đ ch nhng mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vn động trái ngược nhau nhưng điu kin, tin đề tn ti ca nhau. dụ: đin tích âm đin tích dương trong mt nguyên tử, đồng hóa dị hóa ca mt cơ thể sng, sn xut tiêu dùng trong hoạt động kinh tế...

+ Tính chất chung của mâu thuẫn: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú

- Quá trình vận động của mâu thuẫn:

+ Thng nht ca các mt đối lp dùng đ ch sự liên h, ràng buộc, không tách rời nhau, quy định ln nhau ca các mặt đối lp, mty ly mt kia làm tin đ tn ti. S thng nhất ca c mt đối lập tạo thành mâu thuẫn trong các sự vật, hiện tượng.

+ Đấu tranh giữa các mt đối lp dùng đ ch khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, ph đnh nhau ca c mặt đối lp. Hình thc đu tranh ca các mặt đối lp rất phong phú tùy thuc vào tính cht, mi quan h điu kin c th ca sự vt, hin tượng.

Quá trình thng nht và đấu tranh ca các mt đối lập tt yếu dẫn đến s chuyển a giữa chúng. Sự chuyn a ca c mặt đối lp din ra hết sức phong phú, đa dng tùy thuc vào tính chất ca các mt đối lp cũng như tùy thuc vào nhng điu kin lịch s cụ th.

Trong sự thống nht và đấu tranh giữa các mt đối lp, sự đu tranh giữa chúng là tuyt đối, s thống nht giữa chúng là tương đi, điu kin, tm thời; trong sự thng nht đã s đu tranh, đấu tranh trong tính thng nht ca chúng.

- Ý nghĩa phương pháp luận:

Trong quá trình hot động nhn thức thực tin, phải thừa nhận tính khách quan, tính phổ biến tính riêng biệt của mâu thuẫn để khẳng định mâu thuẫn ngun gốc, động lực ca s vn động, phát trin của các sự vật, hiện tượng. 

Trong quá trình hot động nhn thức thực tin, cn phân bit đúng vai trò, vị trí ca các loi mâu thun trong từng hoàn cảnh, điu kin nht định; nhng đc đim ca mâu thun đó đ tìm ra phương pháp gii quyết từng loi mâu thun mt cách đúng đn nht. Đặc biệt là nghiên cứu và giải quyết tính riên biệt của mâu thuẫn. Vì sự vật, hiện khác nhau có mâu thuẫn khác nhau, trong một sự vật, hiện tượng có nhiều loại mâu thuẫn, trong một mâu thuẫn là một quá trình có tinh giai đoạn lịch sử cụ thể...

(3). Qui luật thứ ba, quy luật phủ định của phủ định.

Quy luật phủ định của phủ định, thể hiện khuynh hướng cơ bản phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; đó là khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật thông qua những lần phủ định biện chứng, tạo thành hình thức mang tính chu kỳ “phủ định của phủ định”.

- Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng:

+ Phủ định dùng để chỉ s mất đi ca s vt này, sự ra đi ca s vật khác hoặc đó là quá trình thay thế, chuyển hóa giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới.

Xét về hình thức phủ định có hai hình thức. Thứ nhất là phủ định thông thường. Hình thức phủ định này cũng là sự thay thế, chuyển hóa giữa các sự vật, hiện tượng nhưng có tính tự phát, ngẫu nhiên không không bao hàm sự phát triển. Thứ hai là phủ định biện chứng.

+ Ph định bin chng sự ph đnh tự thân. Đó là sự phủ định do việc giải quyết những mâu thuẫn bên trong các sự vật, hiện tượng dẫn đến sự thay thế, chuyển hóa to ra điu kiện, tin đ cho quá trình phát triển ca s vt, hiện tượng.

Hai đặc trưng cơ bản ca ph đnh bin chng:

Tính khách quan: Tính khách quan nguyên nhân ca s ph định nằm trong chính bn thân sự vt, hin tượng; kết quả tt yếu ca ca quá trình đấu tranh gii quyết mâu thun bên trong bn thân svt.

Tính kế thừa: Tính kế thừa là đặc trưng quan trọng nhất của phủ định biện chứng. Kế thừa là điều kiện, tiền đề cho sự phát triển của cái mới, cái phù hợp với qui luật vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng.  

- Phủ định của phủ định

Trong quá trình vận động của các sự vật, hiện tượng đều có tính chu kỳ. Hiểu theo nghĩa chung nhất, chu kỳ có thể là quĩ đạo, vòng xoay, sự lặp lại trong sự tồn tại, vận động của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy dưới các hình thức khác nhau. Đó là những chu kỳ như: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội...

Trong một chu kỳ vận động của các sự vật, hiện tượng thông qua nhiều lần phủ định biện chứng... ít nhất có hai lần phủ định biện chứng mới tạo ra một chu kỳ vận động...

Sự phủ định lần thứ nhất tạo ra mặt đối lập so với cái ban đầu (trong một chu kỳ). Sự phủ định lần thứ hai hoặc nhiều hơn lại có khả năng tái hiện lại những đặc điểm cơ bản của cái ban đầu (trong một chu kỳ) nhưng cao và thiện hơn...

Ví dụ: Trong một chu kỳ sinh học, khi gieo những hạt lúa, sự phủ định lần một tạo ra những cây lúa sự xuất hiện những hạt lúa mới là sự phủ định lần hai có khả năng tái hiện lại những đặc điểm cơ bản của những hạt lúa trước đây nhưng cao và hoàn thiện hơn...

Qua mi ln phđịnh, s vt loi b đưc nhng yếu tố lc hu, li thi, tích lũy những yếu tố mới, tiến b hơn. Do đó, sự phát trin thông qua phủ đnh bin chứng quá trình đi n t thp đến cao, t đơn gin đến phức tp, từ ca hoàn thin đến hoàn thin.

Tính cht chu kỳ ca các quá trình phát triển thường din ra theo hình thức “xoáy c. Đó không phi sự phát trin theo đường thng theo hình thức “xoáy c, th hin tính cht bin chng ca s phát triển, đó nh kế thừa, tính lp li và tính hoàn thiện (tiến lên).

- Ý nghĩa phương pháp luận:

Cần phải phân biệt giữa phủ định thông thường và phủ định biện chứng.

Trong thế giới khách quan, cái cũ tất yếu sẽ bị thay thế bởi cái mới, đó là sự vận động có tính quy luật nhưng cũng cần phát huy vai trò của nhân tố chủ quan để thúc đẩy sự thay thế đó, khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại, bảo thủ, kìm hãm sự ra đời của cái mới.

Cần phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa sự phát triển. Quan điểm đó đòi hỏi không được phủ định hoàn toàn cái cũ tức phủ định sạch trơn phải biết kế thừa các yếu tố hợp lý của cái cũ cho sự phát triển của cái mới, tức là kế thừa một cách khoa học.

III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG

1. Các nguyên tắc lý luận duy vật biện chứng

- Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con người.

- Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người.

- Ba là, khẳng định nhận thức là một quá trình biện chứng từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ nhận thức lý tính đến thực tiễn.

- Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của nhận thức.

Xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Về bản chất, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn.

2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức

- Thứ nhất, bản chất của nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người, nhưng đây không phải là sự phản ánh đơn giản sao chép về thế giới, mà là sự phản ánh chủ động, tích cực, sáng tạo của con người.  

- Thứ hai, nhận thức là một quá trình biện chứng. Đó là quá trình con ngườikhả năng ngày càng nhận thức đầy đủ, chính xác và hoàn thiện hơn về quá trình vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng. Đó là biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; nhận thức thông thường và nhận thức khoa học...

- Thứ ba, nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.

- Thứ tư, sự phản ánh của nhận thức không phải theo đường thẳng tắp, mà là quá trình đi từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều và nhờ đó mà tư duy không ngừng tiến gần đến khách thể bằng cách tạo ra khái niệm, phạm trù, quy luật ngày càng phản ánh chính xác và đầy đủ về khách thể.

3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

a. Khái niệm thực tiễn

- Thực tin là toàn bộ hot đng vt cht mc đích, mang tính lịch sử - xã hội ca con người nhằm ci biến tự nhiên hi.

Hot động thực tin là hot động vật chất của xã hội bao gồm ba hình thức cơ bản:

+ Hoạt động sản xuất vt chất là hot động con người sử dụng công cụ lao động đ tác động vào giới t nhiên đ to ra ca ci vt cht, các điu kin cn thiết đ duy trì và phát trin con người hội. Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội.

+ Hoạt động chính trị hội hot động đấu tranh xã hội ca các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong hi nhn ci biến những quan hệ chính trị xã hội. Hoạt động chính trị xã hội là nguồn gốc, động lực của sự phát triển xã hội.

+ Hoạt động khoa học hình thức đặc bit ca hot động thực tin, được tiến hành trong những điu kin do con người to ra nhm xác đnh những quy luật biến đổi, phát triển ca đi tượng nghiên cứu. Hot động này có vai trò rt quan trng trong s phát triển ca hội.

b.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn của nhận thức.

- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức. Thực tin là đim xuất phát trực tiếp ca nhn thức, đ ra nhu cầu, nhim v, cách thức khuynh hướng vận động phát trin ca nhn thức.

- Thực tin là mục đích và tiêu chuẩn của nhận thức. Mục đích của nhận thức là quá trình con người phản ánh và vận dụng các qui luật khách quan trong sản xuất vật chất, đấu tranh xã hội và thực nghiệm khoa học.

Thực tin thước đo giá tr ca tri thc đã đt đưc trong nhn thức và không ngừng b sung, hoàn thin, điu chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh phát trin nhn thức.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Vai trò ca thực tin đối với nhn thức đòi hi chúng ta phải luôn luôn quán trit quan đim thực tin. Quan đim này yêu cầu vic nhn thức phi xut phát từ thực tin, dựa trên sở thực tin, coi trọng công tác tổng kết thực tin.

- Nghiên cu luận phi liên hệ với thực tin, tránh bnh giáo điu, duy ý chí, quan liêu nhưng đồng thời cũng không được tuyt đối hóa thực tin đ rơi vào ch nghĩa thực dụng và kinh nghim ch nghĩa.

- Nguyên tc thống nht giữa thực tin với lun phi nguyên tc cơ bn trong hot đng thc tin hot động lun. Lý lun không có thc tin làm sở tiêu chuẩn đ xác định chân ca lun suông, ngược li thc tin không có lý lun khoa học soi sáng s tr thành thực tin mù quáng.

4. Các giai đoạn của quá trình nhận thức

V.I.Lênin đã khái quát con đường biện chứng của quá trình nhận thức như sau: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”[5].

a. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng

- Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính). Đây là giai đon đầu ca quá trình nhn thức. Bao gồm hai đặc điểm:

+ Nhận thức cảm tính là sự phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan.

+ Phản ánh từng mặt, từng thuộc tính và hình thức bên ngoài của đối tượng nhận thức.

Nhn thức cm tính được thực hin qua ba hình thức cơ bn là:

+ Cm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính riêng lẻ bên ngoài của đối tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan con người.

+ Tri giác là hình ảnh tương đối đầy đủ về hình thức bên ngoài của đối tượng trên cơ sở tổng hợp các tư liệu mà cảm giác đã thu nhận được

+ Biểu tượng là hình ảnh về sự vật, hiện tượng đã được tri giác còn lưu lại trong bộ não, và do một tác động nào đó được tái hiện và nhớ lại…

- Tư duy trừu tượng (nhận thức tính). Đây giai đon cao hơn ca quá trình nhn thức. Bao gồm hai đặc điểm:

+ Nhận thức lý tính là sự phn ánh gián tiếp, trừu tượng khái quát những thuộc tính, những đc đim bn cht của sự vt khách quan.

+ Phản ánh bn cht, quy lut ca các s vt, hin tượng.

Nhn thức tính được thực hin thông qua ba hình thức bn:

+ Khái nim phn ánh những đc tính bn cht ca sự vt.

+ Phán đn là phản ánh được hình thành thông qua việc liên kết các khái niệm lại với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ định  một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức. Phán đoán bao gồm phán đoán khẳng định - phủ định. Cũng có thể chia phán đoán thành các phán đoán đơn nhất, đặc thù, phổ biến.

+ Suy là sự liên hệ giữa các phán đoán, là quá trình dẫn đến một phán đoán mới từ phán đoán tiền đề, từ cái đã biết đến nhận thức cái chưa biết một cách gián tiếp.

Ví dụ: Đồng dẫn điện – phán đoán đơn nhất. Đồng là kim loại – phán đoán đặc thù. Mọi kim loại đều dẫn điện – phán đoán phổ biến.

b. Từ tư duy trừu tượng và thực tiễn.

Thực tiễn vừa có vai trò kiểm tra tính chân thực các kết quả nhận thức. Thực tin thước đo giá tr ca tri thc đã đt đưc trong nhn thức và không ngừng b sung, hoàn thin, điu chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh phát trin nhn thức

Vòng khâu của nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, được lặp đi lặp lại nhưng sâu hơn về bản chất. Đó cũng chính là quá trình giải quyết những mâu thuẫn trong nhận thức.

5. Chân lý

a. Khái niệm chân lý

Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn. Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức. Bởi vì, nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt đến chân lý, nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan; nhưng không phải là sự nhận thức nói chung, mà là sự nhận thức đúng về hiện thực khách quan.

b. Các tính chất của chân lý:

- Tính khách quan. Chân lý mang tính khách quan, bởi vì nội dung phản ánh của chân lý là hiện thực khách quan đã được phản ánh và là sự phản ánh đúng, tồn tại không phụ thuộc vào ý thức của con người.

- Tính tuyệt đối và tương đối của chân lý. Tính tuyệt đối của chân lý là tri thức đúng, đầy đủ và chính xác về hiện thực khách quan. Tính tương đối của chân lý là tri thức đúng, nhưng tri thức đó chưa phản ánh hoàn toàn đầy đủ chính xác về thế giới khách quan.

- Tính cụ thể. Chân lý không chỉ có tính khách quan, tuyệt đối và tương đối mà còn có tính cụ thể.

b. Ý nghĩa phương pháp luận

- Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, coi chân lý là một quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn.

- Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào các hoạt động kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con người. Về thực chất đó chính là việc phát huy vai trò của chân lý khoa học trong hoạt động thực tiễn.

 

 



[1] V.I.Lênin (1980), Toàn tập, t.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 323

[2] V.I.Lênin (1980), Toàn tập, t.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr. tr.379

[3] V. I. Lênin (1981), Toàn tập, t. 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 151.

[4] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.35

[5]V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t. 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.179.


1 nhận xét :

Unknown nói...

tại sao nói phép biện chứng duy tâm là dùng để chỉ phép biện chứng của triết học duy tâm