I. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ
XÃ HỘI
1. Sản xuất vật chất là cơ sở cho
sự tồn tại và phát triển của xã hội
- Sản xuất vật chất là một loại hình hoạt động thực tiễn với
mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát
triển của con người và xã hội. Với nghĩa như vậy, sản xuất vật chất là một loại
hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.
Sản xuất vật
chất có các yếu tố cơ bản:
+ Đối tượng
lao động
+ Con người
(lực lượng lao động xã hội)
+ Công cụ
và phương tiện lao động
+ Qui luật của sản xuất vật chất.
- Sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển
của
xã hội, là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối
quan hệ xã hội của con
người; nó là cơ sở
của sự hình thành, biến đổi và phát triển của
xã hội loài người.
2. Biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất).
a.
Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
- Phương thức sản xuất là cách thức mà con người sử dụng để tiến hành quá trình
sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Phương thức sản xuất là
sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản
xuất tương ứng.
- Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong sản xuất vật chất của xã hội, thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con người, trình độ của các quá trình sản xuất vật chất khác nhau
trong xã hội.
Xét về kết cấu lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố:
+ Lao động (con người) với trình độ sản
xuất thể hiện ở kinh nghiệm sản xuất, ở kỹ năng khi sử dụng tư liệu sản xuất và
năng lực sáng tạo ra công cụ và phương tiện lao động.
+ Tư liệu
sản xuất: Bao gồm có tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động
bao gồm công cụ lao động và phương tiện lao động. Tư liệu lao động là những vật
thể hay phức hợp vật thể mà con người sử dụng tác động vào đối tượng lao động.
Trong đó công cụ lao động là yếu tố động và cách mạng nhất của lực lượng sản xuất.
+ Mối quan hệ giữa tư liệu sản xuất và
lao động. Trong đó yếu tố lao động bao giờ cũng giữ vai trò quyết định trong lực
lượng sản xuất. Bởi vì, hoạt động của con người sẽ trực tiếp dẫn đến sự biến đổi
của đối tượng lao động theo những mục đích của mình. Đồng thời để có thể biến đổi
đối tượng lao động, thì con người còn sáng tạo ra những công cụ lao động và
phương tiện lao động.
- Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người và con
người trong quá trình sản xuất vật chất.
Kết cấu của
quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt quan hệ cơ bản sau:
+ Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Xét
về mặt lịch sử quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã được thể hiện dưới hai
hình thức cơ bản, đó là sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ trao đổi hoạt động, địa vị và
quyền tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ này hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất. Bởi vì, những chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội, thì họ sẽ là người nắm vai trò tổ chức và quản lý sản
xuất vật chất của xã hội.
+ Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ này phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bới vì, chủ
thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất thì đồng thời họ là người có mức hưởng thụ
nhiều hơn, và là người có quyền quyết định phân phối sản phẩm vật chất của xã hội.
Trong ba mặt
quan hệ của quan hệ sản xuất đều có sự tác động qua lại lẫn nhau. Nhưng quan hệ
sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ giữ vai trò quyết định trong quan hệ sản xuất.
b. Biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Vai
trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
+ Sự vận
động và phát triển của phương thức sản xuất bao giờ cũng bắt đầu
từ từ sự thay đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết
là người lao động (trình độ lao động) và công cụ lao động... tất yếu
dẩn đến sự thay đổi và phát triển của quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
+ Trong
một phương thức sản xuất lực lượng sản xuất phát triển đến một giới hạn nhất
định sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất cũ đòi hỏi thay thế một kiểu quan hệ
sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Trong xã
hội có giai cấp mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất phản ánh mâu thuẫn cơ bản của một xã hội nhất định. Việc giải
quyết mâu thuẫn đó thông qua một cuộc cách mạng xã hội nhất định.
Ví dụ:
Trong phương thức sản xuất địa chủ phong kiến cuối thời kỳ phục hưng
và cận đại phản ánh mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với sự
xuất hiện của sản xuất công nghiệp đại diện cho vai trò của giai cấp
tư sản với quan hệ sản xuất cũ của giai cấp địa chủ đã lỗi thời
không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới
đòi hỏi xóa bỏ quan hệ sản xuất địa chủ xây dựng quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa thông qua cách mạng tư sản.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất
đối với lực lượng sản xuất
Sự tác động
của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất theo hai khuynh hướng chung:
+ Thứ nhất, có thể thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Khi quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nó
có ý nghĩa thúc đẩy, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Thứ hai, ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời
không phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì
nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng cuối cùng thì quan hệ sản
xuất cũ cũng bị thay thế bởi một quan hệ sản xuất cao hơn, tiến bộ hơn phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
- Ý nghĩa phương pháp luận và thực tiễn
+ Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất khẳng định lịch sử
phát triển của của xã hội là lịch sử của các phương thức sản xuất
vật chất khác nhau theo một quá trình từ thấp đến cao. Đó là từ
phương thức sản xuất nguyên thủy đến phương thức sản xuất cộng sản
chủ nghĩa.
+ Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý
nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính
sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc
biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn sáng tạo
quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
hiện nay.
Công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước là quá trình xây dựng lực lượng sản xuất
mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thực chất là quá trình
chuyển hóa từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và
hiện đại…
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội).
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
- Cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng
hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Bao gồm
quan hệ sản xuất thống trị; quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống.
- Kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị-xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Bao gồm hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo...) và các thiết chế chính trị xã hội tương ứng của chúng (nhà nước, đảng, giáo hội...)
b. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung và
tính chất của kiến trúc thượng tầng; nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng. Tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh
ra một kiến trúc
thượng tầng phù hợp, có tác
dụng
bảo vệ cơ sở hạ tầng đó.
+ Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng
tầng; những biến đổi trong
cơ
sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi
trong kiến trúc thượng tầng; do đó sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với sự biến đổi của cơ
sở hạ tầng.
- Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng
Sự tác động
của
kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng có thể thông qua
nhiều phương thức, hình thức tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng tầng, phụ
thuộc vào vai trò,
vị
trí của nó và những điều
kiện cụ thể.
Trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có yếu tố nhà nước thì phương thức và hình thức tác động của các yếu tố khác tới cơ sở kinh tế phải thông
qua nhân tố nhà nước và pháp luật mới thực sự phát huy vai trò thực tế của nó. Nhà nước là nhân tố tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội
Sự tác động
của
kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng theo nhiều
xu hướng và mục tiêu, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà
còn có thể đối lập nhau, điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau.
Sự tác động của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn
ra theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực. Khi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng phù hợp với nhu cầu khách quan
của sự phát triển kinh tế nó sẽ tạo ra tác động tích cực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, ngược lại nếu các yếu tố của kiến
trúc thượng tầng không phù hợp nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển kinh
tế.
Tuy nhiên, dù kiến trúc thượng tầng có tác động như thế nào tới cơ sở hạ
tầng thì nó cũng không thể giữ vai trò quyết định cơ
sở hạ tầng của xã hội.
c. Ý nghĩa trong đời
sống xã hội
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội nghiên cứu lịch sử của xã hội là lịch sử của các nền kinh tế,
chính trị xã hội theo một quá trình từ thấp đến cao...
- Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức và vận dụng quy luật
này phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam. Đó là đa
dạng hóa các thành phần kinh tế vận động theo cơ chế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cơ sở hạ tầng hiện nay ở Việt
Nam có năm thành phần kinh tế như kinh tế tư nhân của người sản xuất
nhỏ; kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa; kinh tế có vốn đầu tư từ nước
ngoài; kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội
chủ nghĩa là quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và
tiếp tục khẳng định vai trò của hệ tư tưởng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới toàn
diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời
đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những hình thức, bước đi
thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Sự phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
a. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm
trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây
dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.
Phạm
trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản xuất; quan hệ sản
xuất (cơ sở hạ tầng); kiến trúc thượng tầng. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật
chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác
nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh
tế - xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết
định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản
chất các chế độ xã hội khác nhau. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối
quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt
tinh thần của đời sống xã hội.
Xã hội
loài người đã biết
đến 5 hình thái kinh tế - xã
hội
tương ứng với 5 phương thức sản xuất: Hình thái kinh
tế -
xã hội cộng đồng nguyên thủy, hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa,
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa .
b. Tiến trình
lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người
Tính chất lịch sử -
tự nhiên của quá trình phát triển các
hình thái kinh tế
- xã hội được thể hiện ở
các nội dung sau:
- Một là, sự vận động
và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách
quan,
đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế
xã hội mà trước hết là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng
- Hai là, nguồn
gốc
của mọi sự vận động, phát
triển của xã hội đều có nguyên
nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội.
- Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá
trình thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội là do sự tác động của
các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội không tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại
trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
- Vai trò của nhân tố chủ quan đối với tiến trình lịch sử:
Sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế - xã
hội trong lịch sử trước hết do tác động của các quy luật khách
quan nhưng đồng thời còn chịu tác động của các nhân
tố chủ quan như
điều kiện địa lý, tương quan lực lượng
giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa, điều kiện quốc tế... Chính
vì vậy, tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có
thể
diễn ra với những con đường,
hình thức phức tạp, đa dạng phong phú...Tính chất phong phú đa dạng của tiến trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ qua” một hay một vài hình
thái kinh tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên
sự
“bỏ qua” đó phải gắn với
những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
Sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan đối với
sự vận động, phát triển của xã hội:
Lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu tác động đa dạng của các nhân
tố khác
nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người, từ đó lịch sử phát
triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng
và đa dạng trong tính thống nhất của nó.
c. Giá trị khoa học và ý nghĩa cách mạng
- Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất vật chất là cơ
sở
của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội.
- Thứ hai, xã hội là một cơ thể sống động,
trong đó các phương diện của đời sống
xã hội tồn tại trong một hệ thống
cấu
trúc chặt chẽ, tác động qua lại với
nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là
quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ khác
vì vậy, để lý giải các vấn đề đời sống
xã hội cần xuất
phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để phân tích các phương diện
khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học...)
của đời sống xã hội và mối quan hệ giữa chúng.
- Thứ ba, sự vận động, phát triển của xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên, diễn ra theo quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do đó muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tế của đời sống xã hội thì
phải nghiên cứu quy luật vận động, phát triển của xã hội.
II. GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC
1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp
a. Giai cấp
- Định nghĩa giai cấp
Theo V.I.Lênin: “Người ta gọi là
giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ
của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận)
đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và
như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc
nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì
có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn đó có địa vị khác
nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”[1].
+ Giai cấp là kết quả
của
sự phân hóa xã hội do có sự đối lập giữa họ về địa vị trong một chế độ kinh tế
xã hội nhất định.
Cho nên giai cấp là một phạm trù lịch sử.
+
Trong xã hội, giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì đồng
thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà
nước và trở thành giai cấp thống trị xã hội.
+ Giai
cấp không chỉ là khái niệm của khoa học chính trị mà còn là khái niệm phản ánh
mối quan hệ khách quan giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị của xã hội;
phản ánh mối quan hệ kinh tế, chính trị giữa các tập đoàn người trong một điều
kiện lịch sử nhất định.
- Nguồn gốc giai cấp
+ Nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội là phát triển của lực lượng sản xuất
trong gia đoạn cuối của phương thức sản xuất nguyên thủy. Đó là quá trình con người tìm ra kim loại
kim sử dụng kim loại tạo ra công cụ lao động mới dẫn đến phân công lao
động phát triển và năng suất lao động xã hội cao hơn. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất mới mâu thuẫn với quan hệ sản xuất cũ, đòi
hỏi xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới dẫn đến
sự ra đời của quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ.
xã hội của giai cấp trong xã
hội là giải quyết vấn đề binh trong các cuộc chiến tranh giữa các
bộ tộc người trong xã hội nguyên thủydẫn đến một tầng lớp thấp
nhất trong xã hội đó là sự xuất hiện giai cấp nô lệ và người chủ
của giai cấp này là giai
+ Nguồn gốc trực tiếp của giai cấp trong xã hội là từ sự phân hóa xã hội
do sự ra đời, tồn tại của chế độ tư hữu đối với những
tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất, một mặt do sự phân hóa trong nội bộ các công xã trong
xã hội nguyên thủy dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo thành người bóc
lột và người bị bóc lột.Điều này diễn ra trong giai đoạn cuối cùng
của xã hội nguyên thủy khi những người đứng đầu các bộ lạc, bộ tộc
lợi dụng quyền hành của mình chiếm đoạt tư liệu sản xuất và của
cải dư thừa àm của riêng. Hơn nữa, nguồn gốc dẫn đến sự phân chia xã
hội thành giai cấp, sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
còn có nguồn gốc từ sự phân chia chiến lợi phẩm từ các cuộc chiến
tranh giữa các bộ tộc về vấn đề tù binh và phân chia tù binh của
các bộ tộc chiến thắng trong các cuộc chiến tranh đối với các bộ
tộc chiến bại đã tạo ra một tầng lớp thấp nhất trong xã hội tiền
thân của giai cấp nô lệ. Giai cấp chủ nô và nô lệ là giai cấp đầu
tiên khi xã hội phân hóa thành giai cấp
- Kết cấu xã hội - giai cấp
Trong một kết cấu xã hội - giai cấp
bao giờ cũng gồm có hai giai cấp cơ bản và những giai cấp không cơ bản, hoặc
các tầng lớp xã hội trung gian.
Giai cấp cơ bản là giai cấp gắn với
phương thức sản xuất thống trị, là sản phẩm của những phương thức sản xuất thống
trị nhất định. Giai cấp không cơ bản là những giai cấp gắn với phương thức sản
xuất tàn dư, hoặc mầm mống trong xã hội.
Kết cấu xã hội - giai cấp luôn có
sự vận động và biến đổi không ngừng. Sự vận động, biến đổi đó diễn ra không chỉ
khi xã hội có sự chuyển biến các phương thức sản xuất, mà cả trong quá trình
phát triển của mỗi phương thức sản xuất.
b.
Đấu tranh giai cấp
- Tính tất yếu và thực chất của đấu
tranh giai cấp
V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp là “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh
của bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, đấu tranh của quần chúng bị tước
hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức
và ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô
sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”[2].
- Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của
xã hội có giai cấp
Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là phương thức, động lực cơ bản của sự tiến bộ, phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hóa thành
đối kháng giai cấp.
Lịch sử nhân loại từ khi có sự phân hóa đến nay về thực chất chỉ là lịch sử của những
cuộc
đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng với những mức độ khác nhau và mang
sắc thái khác nhau. Kết quả cuối cùng
của những cuộc đấu tranh
đó
đều dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là
cách mạng xã hội.
Đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực cơ bản của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức cơ bản của sự tiến bộ và phát triển xã hội, nhằm giải quyết những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
a. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc
Để tồn tại và phát triển, con người phải gắn kết với nhau
thành những cộng đồng. Trong quá trình phát triển của xã hội, trước khi dân tộc
ra đời, các hình thức cộng đồng người cũng biến đổi từ thị tộc đến bộ lạc, bộ tộc
và dân tộc. Trong các hình thức đó thì dân tộc là hình thức cộng đồng người cao
nhất và phổ biến nhất của xã hội loài người hiện nay.
- Thị tộc là cộng đồng người (gồm
khoảng vài trăm người) có cùng một huyết thống. Thị tộc là một đơn vị sản
xuất và là một hình thức tồn tại cơ bản của xã hội nguyên thuỷ. Do trình độ của
lực lượng sản xuất chưa phát triển, nguồn sống chủ yếu dựa vào trồng trọt và
chăn nuôi, vì vậy vai trò của người phụ nữ trong thị tộc có một vị trí đặc biệt.
- Bộ lạc là một tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều
thị tộc do có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau, trong
đó có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc. Đặc trưng của bộ lạc là
có cùng ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa, tín ngưỡng và cùng chung sống
trên một vùng lãnh thổ.
- Bộ tộc là một cộng đồng dân cư được hình thành từ sự
liên kết của nhiều bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ
nhất định. Bộ tộc đông đảo hơn bộ lạc.
b. Dân
tộc - hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay
- Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch
sử trên cơ sở một lãnh thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, một nền kinh tế
thống nhất, một nền văn hóa và tâm lý, tính cách thống nhất, với một nhà nước
và pháp luật thống nhất. Dân tộc là một cộng đồng dân cư gồm có những đặc điểm
chung thống nhất rất chặt chẽ:
+ Thứ nhất, cộng
đồng về lãnh thổ.
+ Thứ hai, cộng đồng về kinh tế.
+ Thứ ba, cộng đồng về ngôn ngữ.
+ Thứ tư, cộng đồng về văn hóa, về tâm lý.
- Quá trình hình thành các dân tộc ở châu
Âu và đặc thù sự hình thành dân tộc ở châu Á.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là hình
thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế
chính trị. Lịch sử cho thấy, dân tộc có thể được hình thành từ một bộ tộc phát
triển lên, song đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc
người hợp nhất lại.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, ở châu Âu dân tộc hình thành
theo hai phương thức chủ yếu gắn liền với sự hình thành và phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
Phương thức
thứ nhất, dân tộc hình thành từ nhiều bộ tộc
khác nhau trong một quốc gia. Quá trình hình thành dân tộc ở đây vừa là một quá
trình thống nhất lãnh thổ, thống nhất thị trường; đồng thời, cũng là một quá
trình đồng hoá các bộ tộc khác nhau thành một dân tộc duy nhất, một quốc gia
dân tộc độc lập, như ở các nước Đức, Ý, Pháp...
Phương thức
thứ hai, do điều kiện chế độ phong kiến chưa bị
thủ tiêu, chủ nghĩa tư bản phát triển còn yếu, dân tộc được hình thành từ một bộ
tộc. ở đây không có quá trình đồng hoá các bộ tộc mà chỉ có quá trình thống nhất
các lãnh thổ phong kiến thành lập một quốc gia gồm nhiều dân tộc, trong đó mỗi
dân tộc hình thành từ một bộ tộc riêng, như trường hợp ở các nước Nga, Áo, Hung
.v.v...
Quá trình hình thành, phát triển dân tộc diễn ra hết sức
lâu dài, đa dạng và phức tạp. ở các nước châu Âu, sự hình thành và phát triển của
dân tộc trải qua các thời kỳ chính: gắn liền với cuộc cách mạng tư sản do giai
cấp tư sản lãnh đạo; gắn liền với phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
giải phóng dân tộc; và thời kỳ các dân tộc xã hội chủ nghĩa ra đời. Sự hình thành các dân tộc trong lịch sử trên thế
giới còn tuỳ điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, khu vực. Sự hình thành các quốc gia, dân
tộc ở phương Đông có tính đặc thù riêng. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ở Trung Quốc,
Ấn Độ, Việt Nam... dân tộc được hình
thành rất sớm, không gắn với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
- Sự hình
thành dân tộc Việt Nam có nét đặc thù riêng
sau đây:
+ Thứ nhất, sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam cũng
giống như các dân tộc phương Đông, không gắn liền với sự hình thành và phát triển
của phương thức tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là động lực thúc đẩy sự hình
thành dân tộc nước ta cũng không thuộc giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
+ Thứ hai, dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc phương Đông, ra đời
và phát triển gắn với phương thức sản xuất châu Á - một phương thức sản xuất đặc
thù.
Về kinh tế, người Việt Nam cho đến cuối thế kỷ XIX sang
thế kỷ XX vẫn sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp – nông nghiệp độc canh cây
lúa nước, phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên.
Về văn hoá, dân tộc Việt Nam sớm hình thành nền văn minh
rực rỡ riêng của mình như văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn, mặc dù sau đó chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung
Hoa và ấn Độ.
+ Thứ ba, dân tộc Việt Nam hình thành sớm và phát triển bền vững
như ngày nay cùng truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm từ các phía, dưới sự
lãnh đạo của triều đại phong kiến. Mối quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân
loại
c. Quan hệ giai cấp - dân tộc
Giai cấp và dân tộc là hai phạm trù khác nhau, chỉ có mối
quan hệ khác nhau trong xã hội, cho nên mỗi nhân tố có vai trò lịch sử khác
nhau đối với sự phát triển xã hội.
Trong lịch sử nhân loại, giai cấp xuất hiện trước dân tộc,
và trong tương lai khi giai cấp mất đi, dân tộc vẫn tồn tại lâu dài. Song, theo
quan điểm Mácxít, vấn đề dân tộc không thể tách khỏi vấn đề giai cấp. Giải
phóng dân tộc với vấn đề giải phóng giai cấp có quan hệ mật thiết với nhau. Chủ
nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa
quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc, đồng thời dân tộc bao giờ
cũng được chỉ đạo bởi một giai cấp nhất định.
Quan hệ giai cấp - với tư cách là sản phẩm trực tiếp của
phương thức sản xuất trong xã hội có giai cấp - là nhân tố suy cho cùng có vai
trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, quy định bản chất xã hội của dân
tộc, quy định tính chất của mối quan hệ giữa các dân tộc. Biểu hiện rõ nhất
trong lịch sử là vai trò của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản đối với sự
hình thành các dân tộc hiện đại ở châu Âu. Đối với sự hình thành một số các dân
tộc phương Đông diễn ra trước chủ nghĩa tư bản thì vai trò này thuộc về tập
đoàn xã hội đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến đương thời, đó là những
tập đoàn phong kiến tiến bộ.
Thực tiễn lịch sử nhân loại đã xác định kết luận của các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin rằng, muốn xoá bỏ triệt để nạn áp bức
dân tộc thì phải xoá bỏ nguồn gốc của nó là chế độ
người bóc lột người.
Khi giai cấp tư sản còn giữ vai trò thống trị thì vẫn còn
nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác, còn chủ nghĩa thực dân và còn tư tưởng sô
vanh rất nặng nề. Điều đó giải thích vì sao khi các dân tộc tư sản hình thành
thì các cuộc chiến tranh xâm lược lại diễn ra trên quy mô và trong phạm vi rộng
lớn chưa từng có trong lịch sử. Đến khi giai cấp vô sản cầm quyền thì một trong
những mục tiêu mà cách mạng đặt ra và giải quyết là “quyền tự quyết dân tộc ”,
là sự bình đẳng giữa các dân tộc.
Đối với Việt Nam, sự nghiệp giải phóng dân tộc không thể
thành công nếu không có sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng
của nó, nếu không thực hiện được khối liên minh bền vững giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác làm nòng cốt cho khối
đại đoàn kết dân tộc.
Trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đem lại; xu
thế toàn cầu hoá, khu vực hoá tăng nhanh làm cho quan hệ giao lưu, hiểu biết giữa
các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Đó là một trong những điều kiện thuận lợi
cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc hiện nay. Một
trong những đặc điểm chủ yếu của thời đại ngày nay là đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau.
d. Quan hệ giai cấp, dân tộc với nhân loại
Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời
với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp và
dân tộc. Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai đoạn lịch sử nhất định tất yếu hình
thành các quan hệ giai cấp, dân tộc. Giai cấp thống trị trong phương thức sản
xuất còn phù hợp với quy luật vận động của lịch sử không những là đại biểu cho
lợi ích chân chính của dân tộc, mà còn có vai trò to lớn thúc đẩy sự tiến bộ của
văn minh nhân loại. Ngược lại, khi giai cấp thống trị dân tộc trở lên lỗi thời,
phản động, thì lợi ích của nó về căn bản mâu thuẫn với lợi ích chung của dân tộc
và lợi ích toàn nhân loại.
Trong xã hội phong kiến, giai cấp tư sản là giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất mới, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử.
Lúc đó lợi ích của giai cấp tư sản phù hợp với lợi ích của dân tộc và nhân loại,
vì vậy giai cấp tư sản đã có đóng góp tích cực trong việc hình thành dân tộc và
thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng nhân loại.
Giai cấp tư sản sau khi trở thành giai cấp thống trị xã hội,
chúng đã nhanh chóng củng cố quyền lực của mình để duy trì áp bức giai cấp và
áp bức dân tộc. Hiện nay, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đang đặt nhân loại
đứng nhiều vấn đề toàn cầu cấp bách, như ô nhiễm
môi trường sống; cạn kiệt tài nguyên; đói nghèo; bệnh tật; khủng bố.v.v.. Giai
cấp tư sản thực sự là trở lực chính của tiến bộ xã hội hiện nay. Giai cấp công
nhân là giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích căn bản của dân tộc và nhân loại
hiện nay, do vậy muốn giải phóng mình giai cấp công nhân phải đồng thời giải
phóng dân tộc và giải phóng toàn nhân loại. Đó không chỉ là sự nghiệp giải
phóng một giai cấp, mà còn là sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người
nói chung.
Tuy nhiên, vấn đề nhân loại không phải
bị chi phối một cách thụ động bởi vấn đề dân tộc và giai cấp, mà có vai trò tác
động trở lại rất quan trọng. Trước hết, sự tồn tại của nhân loại là tiền đề, là
điều kiện tất yếu thường xuyên của sự tồn tại dân tộc và giai cấp. Sự phát triển
của thế giới mà trước hết là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội nói
chung đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho con người cải tạo tự nhiên và xã hội,
phục vụ cho cuộc sống của mình.
Tác động của nhân loại đến dân tộc và
giai cấp còn được thể hiện ở chỗ, sự phát triển về mọi mặt của nhân loại tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp. Lịch
sử đã khẳng định, sự phát triển của nhân loại qua mỗi giai đoạn đã từng bước
tác động to lớn đến phong trào giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Sự
phát triển đó tạo ra những điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần cho cuộc
đấu tranh của các giai cấp tiến bộ, cách mạng để lật đổ ách thống trị của các
giai cấp thống trị, phản động.
III. NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ
HỘI
1. Nhà nước
a. Nguồn gốc của nhà nước
Do lực lượng sản xuất phát triển, sự
ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp, xã hội cộng sản
nguyên thủy tan rã, xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời trong xã hội phân chia thành
những giai cấp đối lập nhau: giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ.
Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng lần đầu tiên
xuất hiện trong lịch sử là chủ nô và nô lệ, dẫn tới nguy cơ tiêu diệt cả hai
giai cấp và tiêu diệt cả xã hội. Để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền
lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước. Nhà nước là một
phạm trù lịch sử vì nhà nước chỉ xuất hiện gắn liền với những
điều kiện lịch sử nhất định.
b. Bản chất của nhà nước
Nhà nước, về bản chất, là một tổ chức chính trị của một
giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản
kháng của các giai cấp khác. Bản chất của một nhà nước do quan hệ sản
xuất thống trị qui định. Ví dụ: bản chất nhà nước quân chủ của giai
cấp địa chủ do quan hệ sản xuất phong kiến qui định. Đó là nước bót
lột, bóc lột bằng địa tô khi giai cấp địa chủ cho nông dân thuê ruộng
đất canh tác...
c. Đặc
trưng cơ bản của nhà nước
Một là, nhà nước quản lý
dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Khác với tổ chức thị tộc, bộ lạc thời
nguyên thủy được hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, Nhà nước được
hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú.
Hai là, nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính
cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Khác với các cơ quan điều hành
công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng
có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ
trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát, nhà tù, v.v.) và bộ máy quản lý hành chính.
Ba là, nhà nước hình thành hệ thống
thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị. Nhà nước không thể tồn tại nếu
không dựa vào thuế khóa, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là những
chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị.
d. Chức năng cơ bản của nhà nước
- Chức năng thống trị chính trị của
giai cấp chịu sự qui định bởi tính giai cấp của nhà nước. Là công cụ thống trị
giai cấp, nhà nước thường xuyên sử dụng bộ máy quyền lực để duy trì sự thống trị
đó thông qua hệ thống chính sách và pháp luật.
- Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở chỗ, nhà nước nhân danh xã
hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội, điều hành các công việc chung của
xã hội.
Ngoài chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức
năng xã hội, nhà nước còn có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
e. Các kiểu và hình thức nhà nước
- Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về
giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế
nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào. Mỗi kiểu nhà nước lại có thể
tồn tại dưới các hình thức khác nhau.
Trong lịch sử của xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình
thái kinh tế - xã hội: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội
chủ nghĩa. Tương ứng với bốn hình thái kinh tế - xã hội đó đã có bốn kiểu nhà
nước:
+ Kiểu
nhà nước chiếm hữu nô lệ, là nhà nước của giai cấp chủ nô tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là chính thể quân chủ trung ương tập quyền và
phân quyền. Đặc biệt trong chế độ Hy Lạp La Mã cộ đại còn có hình
thức nhà nước chính thể cộng hòa. Nhà nước này phản ánh nền dân chủ
sơ khai đại diện cho tầng lớp dân chủ của giai cấp chủ nô còn gọi là
nhà nước dân chủ Athen cổ đại. Tổ chức quyền lực cao nhất của nhà
nước này là Viện Nguyên lão do dân bầu và Viện Nguyên lão bầu lên
một người đứng đầu nhà nước là nhà vua không theo nguyên tắc cha
truyền con nối mà do Viện Nguyên lão bầu hoặc phế truất.
+ Kiểu nhà nước phong kiến, là bộ máy thống
trị của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến được tổ chức dưới hai
hình thức cơ bản: nhà nước phong kiến phân quyền, nhà nước phong kiến tập quyền.
+ Kiểu nhà nước tư sản, là bộ máy thống
trị của giai cấp tư sản, trên cơ sở chiếm hữu tư liệu sản xuất của giai cấp tư
sản.
- Hình thức
nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ
chức, phương thức thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị. Hình thức
nhà nước thực chất là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị.
+ Nhà nước của giai cấp chủ nô có hai hình thức.
Đó là nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền và phân quyền. Đặc
biệt, trong chế độ Hy lạp La Mã ngoài nhà nước quân chủ còn có nhà
nước dân chủ sơ khai. Đó là nhà nước dân chủ Athen...
+ Nhà nước của giai cấp địa chủ cũng có hai hình
thức. Đó là nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền và phân quyền...
+ Hình thức điển hình của nhà nước dân chủ tư sản là chế
độ cộng hòa đại nghị. Ở một số nước nhà nước lại được tổ chức dưới hình thức
quân chủ lập hiến tồn tại cho đến ngày nay ở nhiều quốc gia. Trong nhà nước đó vua là người đứng đầu quốc gia trên
danh nghĩa, không có thực quyền. Quyền lực nằm trong tay quốc hội và nội các
và người đứng đầu là thủ tướng do dân bầu thông qua phổ thông đầu
phiếu.
Lịch sử diễn ra trong thế kỷ XX đã chứng minh rằng, trong
những trường hợp nhất định, khi lợi ích tư sản đòi hỏi, giai cấp tư sản sẵn
sàng thu hẹp quyền tự do dân chủ, thậm chí sẵn sàng từ bỏ “hình thức chính
trị tốt nhất của chủ nghĩa tư bản”- tức là vỏ dân chủ, để lộ nguyên hình là
một nền chuyên chính, công khai dưới hình thức độc tài phát xít- một hình thức
biểu hiện của chuyên chính tư sản.
+ Theo V.I.Lênin nhà nước vô sản là “nhà nước kiểu
mới’, “ là nửa nhà nước” khẳng định chuyên chính vô sản không những cho
giai cấp vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản, mà còn cho suốt cả thời kỳ lịch
sử từ chế độ tư bản chủ nghĩa đến “xã hội không có giai cấp ” đến chế độ
cộng sản chủ nghĩa.
Nhà nước vô sản có hai chức năng: bạo lực trấn áp và tổ
chức xây dựng, trong đó tổ chức xây dựng là thuộc tính cơ bản nhất của chuyên
chính vô sản.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân cần phải có sự hỗ trợ, cộng tác, liên minh vững chắc với những người lao động khác. Do đó, chuyên chính vô sản là một loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp công nhân với nhân dân lao động. Nhà nước vô sản là chính quyền của nhân dân; là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất.
a. Cách mạng xã hội
Cách mạng xã hội là khái niệm dùng
để
chỉ bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội ở
trình độ thấp lên một hình thái kinh tế - xã hội ở trình độ cao hơn, được tiến hành
trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa...của xã hội. Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp, là cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền, thiết lập một chính quyền mới tiến
bộ hơn.
Về bản chất cách mạng xã hội là một cuộc
cách mạng chính trị. Vì vấn đề cơ bản của các mạng xã hội là vấn
đề nhà nước. Đó là quá trình xóa
bỏ nhà nước của giai cấp thống trị này thiết lập một nhà nước
khác của giai cấp thống trị khác trong lịch sử. Ví dụ: cách mạng tư
sản là một cuộc cách mạng xã hội lật đổ nhà nước của giai cấp
địa chủ xây dựng nhà nước của giai cấp tư sản. Cuộc cách mạng tư
sản đầu tiên của giai cấp tư sản là cuộc cách mạng tư sản ở Hà lan
cuối thế kỷ XVI mở đầu quá trình hình thành và phát triển của chủ
nghĩa tư bản trên thế giới.
Thuật ngữ cách mạng, theo
nghĩa chung nhất là một bước ngoặt trong sự phát triển của các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Đó là cách mạng xã hội, cách mạng công
nghiệp, cách mạng công nghệ, cách mạng tư tưỡng văn hóa... sự khác
nhau căn bản giữa cách mạng xã hội với các cuộc cách mạng khác
trong lịch sử là vấn đề nhà nước trong cách mạng xã hội.
b.
Nguồn gốc, động lực và đối tượng và vai trò lãnh đạo của cách
mạng xã hội
- Nguồn gốc
Nguồn gốc sâu xa của cách mạng xã hội là từ mâu thuẫn giữa sự phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm
của quan hệ
sản xuất đã trở nên lỗi thời mà không
một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào giải quyết được.
Nguồn gốc chủ quan là sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách mạng, tức giai cấp đại biểu cho phương
thức
sản xuất mới tiến bộ
hơn,
từ đó tạo ra
phong trào đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác và khi có
sự kết hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo được thời cơ
cách mạng thì khi đó tất yếu cách mạng sẽ bùng nổ.
Động lực
cách mạng là những giai
cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng, có tính tự giác,
tích cực, chủ động, kiên quyết, triệt để cách mạng, có khả năng lôi cuốn, tập hợp
các giai cấp, tầng lớp khác tham gia phong trào cách mạng.
Đối tượng
của cách mạng xã hội là những
giai cấp và những lực lượng đối lập cần phải đánh đổ của cách mạng. Ví dụ: Trong
cách mạng tháng Tám ở Việt Nam, đối tượng của cách mạng là chính quyền thực dân
và phong kiến.
Giai cấp
lãnh đạo cách mạng xã hội là giai cấp có hệ tư tưởng tiến bộ, đại diện cho xu hướng
phát triển của xã hội, cho phương thức sản xuất tiến bộ. Các cuộc cách mạng tư
sản ở châu Âu thế kỷ XVII –XVIII do giai cấp tư sản lãnh đạo, vì giai cấp tư sản
lúc đó có hệ tư tưởng tiến bộ, chủ trương tự do, bình đẳng, bác ái, đấu tranh
chống lại hệ tư tưởng phong kiến là thần học Ki tô
giáo, chống giai cấp địa chủ phong kiến. Giai cấp tư sản là giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiến bộ hơn so với phương thức
sản xuất phong kiến đã tỏ ra lạc hậu, lỗi thời.
Cách mạng xã hội diễn ra rất phong phú đa dạng. Điều
đó phụ thuộc vào điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng cách mạng xã hội.
Điều kiện
khách quan của cách mạng
xã hội là điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, chính trị bên ngoài tác động đến,
là tiền đề diễn ra các cuộc cách mạng xã hội.
Về kinh tế, khi trong một hình thái kinh tế -xã hội,
hai yếu tố của phương thức sản xuất là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
mâu thuẫn gay gắt với nhau, làm cản trở sự phát triển của phương thức sản
xuất, cũng có nghĩa là cản trở sự phát triển của cả hình thái kinh tế - xã hội,
của cả xã hội. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến sự bùng nổ của cách mạng xã hội. Cùng với điều kiện
kinh tế, các cuộc cách mạng
xã hội nổ ra còn do điều kiện chính trị - xã hội.
c. Phương pháp cách mạng
Mục tiêu của cách mạng xã hội
là giành chính quyền bằng cách đập tan (xóa bỏ) chính quyền đã lỗi thời, phản động,
cản trở cho sự phát triển của xã hội, thiết lập một trật tự xã hội mới tiến bộ
hơn. Để thực hiện được mục tiêu cách mạng cần có các hình thức và phương pháp
cách mạng phù hợp.
-
Phương
pháp cách mạng bạo lực là hình thức cách mạng khá phổ biến.Cách
mạng bạo lực là hình thức tiến hành cách mạng thông qua bạo lưc để giành chính quyền, là hành động của lực lượng cách mạng
dưới sự lãnh đạo của giai cấp lãnh đạo cách mạng vượt qua giới hạn luật pháp của
giai cấp thống trị hiện thời, xác lập nhà nước của giai cấp cách mạng.
-
Phương
pháp hòa bình cũng là một phương pháp cách mạng để
giành chính quyền. Phương pháp hòa bình là phương pháp đấu tranh không dùng bạo
lực cách mạng để giành chính quyền trong điều kiện cho phép.
d. Vấn đề cách mạng xã hội trên thế giới hiện nay
Trong thời đại ngày nay, xã hội đã có nhiều đổi khác so với
những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước. Xã hội hiện đại bị chi phối bởi đặc điểm
của thời đại: cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ, nền kinh tế tri thức ở các nước phát triển, xu hướng đối
thoại thay cho xu hướng đối đầu, những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại
phần nào “làm dịu” mâu thuẫn giai cấp, sự xung đột về giai cấp vẫn còn song
không gay gắt như thế kỷ XIX - XX, thay vào đó là sự xung đột về kinh tế, sắc tộc, tôn giáo giữa các quốc gia, khu vực. Cùng với đó là
sự ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, nạn đói và bệnh tật ở
nhiều nước,… cũng là những
nguyên nhân tạo ra sự bất ổn trong thế giới đương đại. Những mâu thuẫn xã hội
trong xã hội hiện đại tiềm ẩn khả năng những biến động xã hội theo chiều hướng
tiến bộ dưới hình thức cải tổ, cải cách, đổi mới như ở các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây và những hình thức hợp tác mới trên cơ sở các lực lượng xã
hội có thể chấp nhận được ở các nước theo các xu hướng chính trị khác nhau hiện
nay.
Vì lợi ích chung của toàn thế giới, các nước có chế độ xã
hội và chính trị khác nhau vẫn có thể thông qua các tổ chức quốc tế, đối thoại,
hòa giải những tranh chấp về kinh tế, lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên thiên
nhiên,.. và những bất đồng khác. Xu hướng đối thoại, hòa giải
đang là xu hướng chủ đạo hiện nay. Các cuộc chiến tranh dưới màu sắc dân tộc,
tôn giáo, nhân quyền dưới chiêu bài “nhân đạo”, chống vũ khí hóa học, vũ khí
sinh học đang bị các thế lực tiến bộ lên án, phản đối.
Xu hướng giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia dân tộc,
không phụ thuộc và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đấu tranh cho
dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội đang diễn ra mạnh mẽ, ngày càng tỏ ra chiếm
ưu thế.
Các quốc gia, dân tộc sẽ đi tới một xã hội dân chủ, tự
do, công bằng, văn minh theo cách đi của mình thông qua các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế và khoa học - công nghệ. Và do
đó, dù không có các cuộc cách mạng xã hội điển hình như đã từng
diễn ra trong lịch sử, thì các quốc gia dân tộc trên thế giới sẽ phát triển dần
dần theo hướng thay đổi từng bộ phận, từng yếu tố, lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Thay đổi trước hết về lực lượng sản xuất do cách mạng
khoa học - công nghệ mang lại, rồi đến thay đổi quan hệ sản
xuất, từ đó dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội tức
cơ sở hạ tầng, và do đó thay đổi các yếu tố của kiến trúc thượng
tầng xã hội, dẫn đến thay đổi toàn bộ xã hội.
Trong thời đại ngày nay, theo nguyên lý về sự phát triển của triết học Mác, khó có
thể để bùng nổ những cuộc cách mạng xã hội điển hình như cách mạng tư sản ở
châu Âu thế kỷ XVII – XVIII, cách mạng Tháng Mười ở Nga năm 1917… Cách mạng xã
hội sẽ diễn ra dưới hình thức thay đổi dần dần các yếu tố, lĩnh vực của đời sống
xã hội.Xã hội sau sẽ phát triển, tiến bộ hơn xã hội trước.
IV. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THÚC XÃ HỘI
1. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Tồn tại
xã hội dùng để chỉ những phương diện
sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Tồn tại xã hội có 3 yếu tố:
+ Hoàn cảnh địa lý: Thời tiết, tài
nguyên, đối tượng lao động.
Môi trường sống và môi trường hoạt động nói chung của con người. Trong lịch sử có quan điểm tuyệt đối hóa yếu tố
này để nói đến vấn đề chủng tộc, phân biệt chủng tộc cũng như về
vấn đề tài nguyên có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của
xã hội.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin hoàn
cảnh địa lý là yếu tố tất yếu, thường
xuyên… không giữ vai trò
quyết định đối với sự tồn
tại và phát triển xã hội. Hoàn cảnh địa lý có thể tạo điều kiện
thuận lợi hoặc khó khăn cho cuộc sống của con người. Sự thay đổi của hoàn cảnh địa lý, một mặt
phụ thuộc vào qui luật tự nhiên, mặt khác do sự tác động của con người…
+ Dân
số và mật độ dân số: Trong lịch sử
có quan điểm tuyệt đối hóa yếu tố này để nói đến vấn đề dân tộc,
chủ nghĩa dân tộc cực đoan có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển của xã hội.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin dân
số, mật độ dân số là yếu tố tất yếu, thường
xuyên… không giữ vai trò
quyết định đối với sự tồn
tại và phát triển xã hội. Yếu tố hình thành lực lượng lao động xã hội và các cộng đồng
người
như vấn đề dân tộc…
Sự phát triển dân số tỷ lệ
nghịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Bởi vì, một địa
phương, khu vực hoặc một quốc gia có trình độ dân trí và sự phát
triển kinh tế cao thì tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên giảm, ngược
lải một địa phương, khu vực hoặc một quốc gia có trình độ dân trí
và sự phát triển kinh tế cao thì tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên
giảm. Ở Việt Nam hiện nay, tỉnh nào, khu vực nào trình độ dân trí
thấp, khó khăn về kinh tế thì tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên cao
và ngược lại...
+ Phương thức sản xuất: Yếu tố giữ vai trò quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội. Vì PTSX là qui luật chung của sản xuất vật chất vật chất
xã hội.
- Ý thức xã
hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của
xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định. Đó là tình cảm, ý chí, tư tưởng và các
lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội như chính trị, pháp quyền…
Kết cấu của ý thức xã hội bao gồm 2 cấp
độ:
+ Ý thức thông
thường và ý thức lý luận.
Ý thức thông thường (ý thức sinh
hoạt đời thường) là những tri thức, quan niệm của
con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn
thường nhật như tình cảm, sở thích, nguyện vọng, ý chí, những tư
tưởng quan điểm riêng lẻ, cụ thể về chính trị, pháp quyền...của con
người phản ánh trực tiếp những điều kiện kinh tế xã hội chưa được
khái quát, hệ thống hóa thành lý luận thành các học thuyết xã hội
Ý thức lý luận là
những tư tưởng, quan điểm xã hội được hệ thống hóa, khái quát thành
các học thuyết xã hội như ý thức chính trị, pha1p quyền…
Ý thức thông thường và ý thức lý
luận tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác
nhau của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội nhưng chúng có mối liên
hệ tác động qua lại. Việc tổng kết, khái quát hóa tri thức kinh
nghiệm của ý thức thông thường là một trong những tiền đề khách
quaan cho sự hình thành ý thức lý luận. Ngược lại ý thức lý luận
không chỉ có khả năng phản ánh bản chất,qui luật của tồn tại xã
hội mà nó tác động trở lại ý thức thông thường làm cho ý thức
thông thường ngày một hoàn thiện hơn.
+ Tâm lý xã hội và
hệ tư tưởng.
Tâm
lý xã hội là một bộ phận,
một cấp độ ý thức thông thường phản ánh ti1nh qui luật của ý thức
thông thường. Đó là qui luật tâm lý xã hội và tính đặc thù của tâm
lý dân tộc, gia cấp, v.v...Bởi vì, tâm lý xã hội phản ánh toàn bộ
tình cảm, ước muốn thói quen… phong tục tập quán, truyền thống văn
hóa của xã hội, của một dân tộc nhất định…
Hệ
tư tưởng là một bộ phận,
một cấp độ phản ánh tính qui luật của ý thức lý luận đó là quá
trình hình thành và phát triển của của ý thức xã hội, các học
thuyết xã hội…
Tâm
lý xã hội và hệ tư tưởng tuy là hai trình độ, hai phương thức của ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội nưng giữa chúng có sự liên hệ
tác động quaa lại. Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi
hoặc gây trở ngai cho sự hình thành, truyền bá, tiếp thu của con
người với một tư tưởng, một học thuyết nhất định. Hệ tư tưởng không
hình thành một cách tự phaa1t từ tâm lý xã hội, mà nó hình thành
một cách tự giác của quá trình tổng kết những kinh nghiệm của lịch
sử hoặc là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học.Ví dụ: Hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân không hình thành trực tiếp từ tâm lý xã
hội của giai cấp công nhân mà do sự khái quát lý luân từ những kinh
nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân và lịch sử tư tưởng nói chung
của nhân loại...
Trong xã hội có giai cấp ý thức xã hội mang tính giai cấp. Tính giai cấp của ý thức xã hội không chỉ là sự phản ánh, bảo vệ lợi ích cho các giai cấp khác nhau mà còn thể hiện cuộc đấu tranh về mặt tư tưởng trong đời sống tinh thần của xã hội. Đặc biệt trong thời đại của khoa học công nghệ hiện nay. Chẳng thế, mà trong cộng đồng mạng, trong bách khoa toàn thư mở đã xuất hiện, tồn tại những quan điểm khác nhau, đối lập nhau một cách gay gắt về một vấn đề nào đó thật giả, đúng sai khó phân định. Vấn đề đặt ra, là vấn đề nhận thức, đánh giá tùy thuộc vào trình độ của mỗi người...
2. Quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Vai trò
quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
+ Ý thức xã hội
là sự phản ánh tồn tại xã hội, nên nó có nguồn gốc và bị qui định bởi tồn tại
xã hội. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội
phản ánh tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
+ Một khi tồn tại
xã hội thay đổi tất yếu dẫn đến sự thay đổi của ý thức xã hội. Mỗi khi tồn
tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư
tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm chính trị, pháp quyền,
đạo đức…cũng thay đổi theo. Sự thay đổi của ý thức xã hội, có thể
phù hợp hoặc không phù hợp nhưng xét về quá trình và lâu dài nhất
định sẽ phù hợp với sự thay đổi của tồn tại xã hội.
- Tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội
+ Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn
tại xã hội. Bởi vì một mặt, ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh
và bị qui định bởi tồn tại xã hội; mặt khác do sức mạnh của thói
quen tâm lý, mặt hạn chế của tập quán truyền thống văn hóa và tính
lạc hậu, bảo thủ trong một số các hình thái ý thức xã hội cũng
tác động ngược lại sự phát triển của tôn tại xã hội, v.v...
+ Ý thức khoa học có tính năng động,
sáng tạo, vượt trước tồn tại xã hội. Khoa học không chỉ có khả năng dự
báo tính tất yếu trong sự vận động và phát triển các lĩnh vực của
đời sống xã hội mà còn dẫn đến sự biến đổi tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội một khi con người vận dụng thành công tri thức
khoa học trong hoạt động thực tiễn xã hội. Đặc biệt trong thời đại
ngày nay, khoa học trở thành lực lượng vật chất trực tiếp của sản
xuất vật chất của xã hội.
+ Sự vận động và phát triển của ý
thức xã hội không phải chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội trong
những điều kiện lịch sử nhất định mà nó còn bao hàm sự kế thừa
không chỉ trong lịch sử hình thành trong một hình thái ý thức xã
hội mà giữa các hình thái ý thức xã hội làm điều kiện tiền đề
cho sự phát triển của ý thức xã hội.
+ Sự tác động qua lại giữa các hình
thái của ý thức xã hội cũng là điều kiện tiền đề cho sự phát
triển của ý thức xã hội.
+ Sự tác động trở lại đối với tồn tại
xã hội có tính năng động và sáng tạo. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội, thông qua hướng
dẫn hoạt động thực tiễn. C.Mác:
“... Lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất một
khi được thâm nhập vào quần chúng”. V.I.Lênin:
“ không có lý luận cách mạng thì không có
phong trào cách mạng”. Hồ Chí
Minh: “ thực tiễn mà không có lý luận là thực tiễn mù quáng”
3. Các hình thái ý thức xã hội
- Ý thức chính trị.
Ý thức chính trị là hình thái ý thức
xã hội chỉ xuất hiện, tồn tại trong xã hội có giai cấp và nhà
nước, nó phản ánh các mối quan hệ
kinh tế của xã hội bằng chính trị cũng như mối quan hệ giữa các giai cấp, các
dân tộc, các quốc gia và thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
Ý
thức chính trị, đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị thống trị có vai
trò quaan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Hệ tư tưởng
chình trị có vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
Tính
tính cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng chính trị phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, cách
mạng hoặc phản tiến bộ, cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó
- Ý thức pháp quyền.
Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng,
quan điểmcủa một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về
quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân về
tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội,
cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực thi
luật pháp của nhà nước.
Ý thức
pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ với ý thức chính trị. Hình thái ý thức pháp
quyền cũng phản ánh các mối quan hệ kinh tế của xã hội bằng ngôn ngữ pháp luật.
Pháp
luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ,
do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp
luật của giai cấp nắm chính quyền. Về nguyên tắc, hiệu lực của pháp
luật không những phụ thuộc vào sức mạng của cưỡng chế của nhà nước
mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và tâm lý pháp luật của
xã hội.
- Ý thức đạo đức.
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương
tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc, v.v. và về những quy tắc đánh
giá, những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với với
nhau và giữa các cá nhân với xã hội.
Ý thức đạo đức cùng với ý thức tôn giáo và ý thức thẩm mỹ
ra đời rất sớm trong xã hội nguyên thủy. Sự ý thức về lương tâm, danh
dự và lòng tự trọng, v.v…phản ánh khả năng tự chủ của con người là
sức mạnh đặc biệt của đạo đức, biểu hiện bản chất xã hội của con
người. Khác với sự cưỡng chế của nhà nước trong ý thức pháp quyền
thì ý thức đạo đức điều tiết những hành vi đạo đức bởi sức mạnh
của dư luận xã hội.
Trong
ý thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan
trọng, nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi
tri thức đạo đức thu nhận bằng con đường lý tính không thể chuyển
hóa thành hành vi đạo đức.
Trong
tiến trình phát triển của xã hội, giá trị đạo đức không chỉ những
quy tắc, tiêu chuẩn đạo đức trong gia đình, giai cấp, dân tộc mà có
tính nhân loại. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp đạo đức có tính
giai cấp phản ánh và bảo vệ lợi ích cho những giai cấp khác nhau.
- Ý thức khoa học.
Ý thức khoa học vừa là một hình thái
của ý thức xã hội, vừa là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
Ý thức khoa học với tính cách là một
hình thái ý thức xã hội- là hệ thống tri thức phản ánh chân thực
dưới dạng lôgic trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm bởi
thực thực tiễn. Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát
mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là sự khác biệt
giữa ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác.
Hình
thức biểu hiện đặc thù của ý thức khoa học là phạm trù, định
luật, qui luật,v.v…
Tri
thức khao xâm nhập vào các hình thái của ý thức xã hội khác, hình
thành các khoa học tương ứng với từng hình thái ý thức xã hội đó.
Xét
về đối tượng, các khoa học chia thành những khoa học, khoa học tự
nhiên – kỹ thuật, nghiên cứu các qui luật của tự nhiên, các phương
thức chinh phục và cải tạo tự nhiên; và những khoa học xã hội nghiên
cứu những qui uật vận động, phát triển của xã hội và bản thân con
người.
Khoa học hình thành và phát triển ở một giai đoạn nhất định của sự phát
triển xã hội, của nhu cầu sản xuất xã hội và sự phát triển năng lực tư duy của
con người.
- Ý thức tôn giáo.
Ý thức tôn giáo bao gồm tâm lý tôn giáo
và hệ tư tưởng tôn giáo.
Tâm
lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng thói
quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là
hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và
truyền bá trong xã hội.
Ý
thức tôn giáo thực hiện chức năng chủ yếu là chức năng đền bù – hư
ảo trong xã hội cần đến sự đền bù – hư ảo phản ánh đời sống tâm
linh của con người. Chức năng đền bù – hư ảo nói lên khả năng của tôn
giáo có khả năng có thể bù đắp, bổ sung một cách hư ảo về hiện
thực mà trong đó con người còn bất lực trước những hiện tượng thần
bí, biểu hiện sức mạnh vô hình của tự nhiên, xã hội và tư duy mà
khoa học chưa có thể giải thích một cách khoa học về các hiện tượng
thần bí đó.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng điều kiện tiên
quyết để khắc phục tính chất tiêu cực của tôn giáo là phải xó bỏ
nguồn gốc xã hội của tôn giáo, nghĩa là phải tiến hành một cuộc cách
mạng xã hội không những cải tạo xã hội mà còn cải tạo bản thân con
người, giải phóng ý thức của mình khỏi những quan niệm sai lầm, ảo
tưởng của tôn giáo.
- Ý thức nghệ thuật hay ý
thức thẩm mỹ.
Lịch sử mỹ
học là lịch sử ra đời, hình thành và phát triển từ xã hội nguyên thủy.
Xét về nội dung, đối
tượng nghiên cứu của mỹ học là nghiên cứu các quan hệ thẩm mỹ của con người với
hiện thực, xét về chủ thể, khách thể và nghệ thuật:
Chủ
thể thẩm mỹ, một
mặt với tính cách là quá trình cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ; mặt khác
là các hoạt động của chủ thể thẩm mỹ nhằm thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ tình cảm thẩm
mỹ – thị hiếu thẩm mỹ – lý tưởng thẩm mỹ của cá nhân và xã hội. Chỉ có các nhu
cầu về cái đẹp, tình cảm về cái đẹp – thị hiếu về cái đẹp – lý tưởng thẩm mỹ về
cái đẹp là đối tượng của mỹ học, còn các nhu cầu khác trong hoạt động xã hội của
con người là đối tượng nghiên cứu của các khoa học khác.
Khách
thể thẩm mỹ với
tính cách là đối tượng thẩm mỹ. Đó là những những hiện tượng thẩm mỹ khách quan
như cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả trong cuộc sống và trong nghệ thuật.
Trong đó cái đẹp giữ vị trí trung tâm. Bởi vì, cái bi, cái hài, cái cao cả sở
dĩ mang yếu tố thẩm mỹ vì chúng là các hình thức tồn tại khác nhau của cái đẹp
và trong mối quan hệ với cái đẹp.
Nghệ
thuật với
tính cách là hình thái cao nhất của quan hệ thẩm mỹ, cũng bao gồm sự hưởng thụ,
đánh giá, sáng tạo nghệ thuật nhằm thoả mãn nhu cầu tình cảm – thị hiếu – lý tưởng
nghệ thuật của cá nhân và xã hội. Nói đến nghệ thuật là nói đến các qui luật của
tình cảm, của cái đẹp. Sự phản ánh cái xấu trong nghệ thuật cũng phải gắn với
lý tưởng về cái đẹp. Do đó, cái đẹp đã làm cho nghệ thuật thể hiện được bản chất,
đặc trưng và chức năng của nó và đồng thời nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của
mỹ học.
IV. TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI
1. Khái lược về con người và bản chất của con người
a. Khái niệm về con người
- Trong lịch sử
triết học có rất nhiều quan niệm khác nhau về con người, bản chất của con
người, cơ bản là những quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình.
Theo quan điểm duy
vật lịch sử: Con người là một thực thể tự nhiên có
đặc tính xã hội hoặc con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và
mặt xã hội.
+ Con người là
thực thể tự nhiên (bản tính tự nhiên – mặt sinh học) xét về nguồn gốc, bản
chất và vai trò của các qui luật tự nhiên đối với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển con người. Con người là sản phẩm của lịch sử tự nhiên. Đó là quá trình
hình thành phương diện sinh học và khả năng thỏa mãn nững nhu cầu
sinh học như ăn, mặc ở, hoạt động và tái sản sinh con người. Như vật,
con người trước hết là một thực thể sinh học, tính loài. Yếu tố
sinh học trong con người là kết cấu sinh học về thể chất và mối quan
hệ của nó với tự nhiên, là những thuộc tính những đặc điểm sinh
học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau thể
hiện bản chất sinh học của cá nhân con người.
+ Con người là thực thể xã hội: Con người là sản phẩm của lịch sử
phát triển xã hội và chính lao động là nhân tố giữ vai trò quyết
định cho quá trình hình thành con người, ngôn ngữ, ý thức của con
người. Thông quan hoạt động sản xuất vật chất, con người đã cải biến
giới tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người. Đó là quá trình
hình thành phương diện xã hội và khả năng thỏa mãn không chỉ những
nhu cầu sinh học mà còn khả năng thỏa mãn những nhu cầu xã hội nói
chung của con người.
+ Khẳng định con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã
hội theo nguyên tắc mặt sinh học là điều kiện, tiền đề tiên quyết làm
xuất hiện con người; mặt xã hội giữ vai trò quyết định đối với sự
hình thành, tồn tại, vật động và phát triển của con người thông qua
các qui luật khách quan của đời sống con người...
b. Bản chất con người là tổng
hòa các quan hệ xã hội
Xuất phát từ
sự khẳng định con người là một thực thể thống nhất giữa mặt
sinh học và mặt xã hội theo nguyên tắc mặt sinh học là điều kiện, tiền
đề tiên quyết làm xuất hiện con người; mặt xã hội giữ vai trò quyết
định đối với sự hình thành, tồn tại, vật động và phát triển của
con người thông qua các qui luật khách quan của
đời sống con người. Bản chất của con
người: chính là ở đặc tính xã hội, ý thức, trí
tuệ, tình cảm, năng động, sáng tạo; được hình thành trong môi trường, quan hệ
xã hội, “ là tổng hòa của các quan hệ xã hội ”
Con người vượt
lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau. Đó là quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con
người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội,
trong đó quan hệ giữa người và người là quan hệ bản chất, bao trùm
tất cả những mối quan hệ khác và mọi hoạt động liên quan đến con
người...
Theo Các Mác
trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa
những mối quan hệ xã hội. Luận điểm trên
của Các Mác khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể,
xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một
thời đại nhất định. Trong những điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt
động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất
và tinh thần để tồn tại cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong
toàn bộ các mối quan hệ xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa và
những mối quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại,v,v... con người mới
bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Điều cần lưu ý là luận
điểm trên khẳng định bản chất xã hội của con người không có nghĩa
phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống của con người...
c. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu:
- Xem
xét con người phải đặt trong mối quan hệ cụ thể, môi trường, hoàn cảnh sống xác
định và quan điểm toàn diện, xem xét tổng thể các mối quan hệ khi đánh giá một
con người.
- Phát
huy tính năng động sáng tạo của mỗi người, tạo điều kiện hoàn thiện con người
phát triển tự do và toàn diện.
- Sự
nghiệp giải phóng con người phải bắt nguồn từ phân tích, giải phóng các quan hệ
xã hội mà con người đang sống.
2. Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con
người
Theo nghĩa rộng nhất, tha hoá là quá trình xã hội mà
trong đó kết quả hoạt động của con người biến thành một lực lượng độc lập thống
trị lại con người và thù địch với con người. Mác tìm nguyên nhân dẫn đến sự tha
hoá của con người từ “lao động bị tha hoá”, biểu hiện:
- Sản phẩm do lao động của con người trở
thành cái đối lập, chi phối con người
- Lao động không còn mang bản chất sáng tạo
mà trở thành lao động cưỡng bức, con người không khẳng định mà lại phủ định
chính mình.
- Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sức
lao động cũng không thuộc người lao động mà thuộc người khác (nhà tư bản thuê
lao động
Theo C. Mác, thực chất của lao động bị tha hóa là quá
trình lao động và sản phẩm của lao động từ chỗ để phục vụ con người, để phát
triển con người đã bị biến thành lực lượng đối lập, nô dịch và thống trị con
người. Người lao động chỉ hành động với tính cách con người khi thực hiện các
chức năng sinh học như ăn, ngủ, sinh con đẻ cái,… còn khi lao động, tức là khi
thực hiện chức năng cao quý của con người thì họ lại chỉ như là con vật.
Đối với phương thức và lực lượng thực hiện việc giải
phóng con người, triết học Mác - Lênin khẳng định:
Giải phóng con người là xóa bỏ người bóc lột người, xóa bỏ
tha hóa để con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của
mình.
Nguyên nhân nảy sinh ra tha hóa do chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất gắn trực tiếp với chế độ tư bản. Vì vậy, lực lượng thực hiện nó chính
là những người bị tước đoạt tư liệu sản xuất – những người vô sản.
3. Quan điểm triết học Mác – Lênin về quan hệ cá nhân và
xã hội
- Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội
nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính
phổ biến của nó.
- Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá
nhân trong mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của một
xã hội là cộng đồng tập thể gia đình, cơ quan, đơn vị... và lớn hơn là cộng đồng
xã hội quốc gia, dân tộc… và rộng lớn nhất là cồng đồng nhân loại.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, xã hội giữ
vai trò quyết định đối với cá nhân. Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội
là giải quyết quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động
vào mọi quá trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực hiện. Xã hội
càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những
giá trị vật chất và tinh thần. Mặt khác, mỗi cá nhân trong xã hội càng phát triển
thì càng có điều kiện để thúc đẩy xã hội tiến lên. Vì vậy, thỏa mãn ngày càng tốt
hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy
sự phát triển xã hội. Bất cứ vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù
trực tiếp hay gián tiếp, nếu lợi ích cá nhân và xã hội là thống nhất thì chính ở
đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực chung vì một tương lai tốt đẹp.
4. Quan điểm triết học
Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân và vĩ nhân, lãnh tụ trong lịch sử
a. Vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển của lịch sử
- Khái niệm quần chúng
nhân dân
Khái niệm quần chúng nhân dân cũng thay đổi
và phát triển phụ thuộc những điều kiện lịch sử nhất định. Nhưng luôn được xác
định được bởi 3 quan hệ xã hội sau:
+ Quần chúng nhân dân, trước hết là lực lượng lao động xã hội, những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất của xã hội. Quan hệ xã hội này là nội dung cơ bản để xác định
nội dung khái niệm QCND. Theo
nghĩa hẹp, trong quan hệ này khái niệm QCND là khái niệm quần chúng nhân dân
lao động.
+ QCND là các bộ phận dân cư, thể hiện sự thống
nhất về kinh tế, chính trị, ngôn ngữ và văn hóa trong quan hệ với quyền lực nhà
nước và luôn có khuynh hướng chống lại những giai cấp thống trị bóc lột. Theo
nghĩa hẹp, trong quan hệ này khái niệm QCND được hiểu là quyền lực của nhân
dân, của dân tộc trong quan hệ với nhà nước.
+ QCND là các giai cấp, tầng lớp xã hội có ý nghĩa
tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội. Theo nghĩa rộng, trong quan hệ này QCND là cộng
đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo…
Khái quát 3 quan hệ xã hội trên chủ nghĩa duy vật
lịch sử định nghĩa quần chúng nhân dân: Quần chúng nhân dân là
những cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của các cá nhân hay các tổ chức
chính trị xã hội nhất định, nhằm giải quyết các nhiệm vụ của lịch sử.
- Vai trò của quần chúng
nhân dân đối với sự phát triển của xã hội
Trong lịch sử triết học trước Mác, về cơ bản đều chưa phản
ánh đúng về vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển
của xã hội. Đó là những quan điểm có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai
trò của các cá nhân như lãnh tụ chính trị của các đảng phái, các
giai cấp, dân tộc đối với sự phát triển của xã hội và ngược lại
phủ nhận vai trò của quần chúng nhân dân...
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi
vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được
chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân.
Hơn nữa, tự tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua
các mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân để biến lý
tưởng thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Vai trò của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung
cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, quần
chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội.
• Quần chúng nhân dân là những người lao động, lực
lượng trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội;
• Hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân
dân là cơ sở cho sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội;
• Quần chúng nhân dân là chủ thể xã hội, quyết định
đối sự phát triển xã hội.
+ Thứ hai, quần
chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội…
• Xuất phát từ quan niệm của Lênin cho rằng sự
nghiệp cách mạng là sự nghiệp của QCND…
• Phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân luôn
là lực lượng đông đảo trong các cuộc cách mạng xã hội;
• Phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân luôn
gắn liền với giải phóng dân tộc…
+ Thứ ba, quần chúng nhân dân có vai quan trọng trong sự hình thành và phát triển
của các nền văn hóa... Bản sắc văn hóa của các dân tộc đều do quần chúng nhân
dân sáng tạo dưới các hình thức như: Thần thoại, truyền thuyết, ca dao, tục
ngữ, châm ngôn, truyện cười…
- Ý nghĩa phương pháp luận
và thực tiễn
+ Phê phán quan điểm không đúng về vai trò của quần chúng nhân
dân đối với sự phát triển của xã hội. Đó là quan điểm của triết
học duy tâm, siêu hình và tôn giáo...
+ Khẳng định quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định đối
với sự phát triển của xã hội
+ Quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay ở Việt Nam. Quyền lực của nhà nước là quyền lực của
nhân dân. Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân...
b. Vĩ nhân (Lãnh tụ).
- Khái
niệm vĩ nhân (lãnh tụ).
Để trở thành lãnh tụ gắn bó với quần chúng, được quần
chúng tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:
Một là, có tri thức
khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Hai là, có năng lực
tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân
dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên
mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại. Bất cứ một thời kỳ nào, một
dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong
phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ, đáp ứng yêu
cầu của lịch sử.
- Vai trò
của vĩ nhân (Lãnh tụ).
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm
vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, nắm bắt
xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật
khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
Thứ hai, định hướng
chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng.
Thứ ba, tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết
phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải
quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.
5. Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam
- Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng nhấn mạnh đến việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước hiện nay với những đức tính sau đây:
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu
vì lợi ích chung.
+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn
minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của
cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề
nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình,
tập thể và xã hội
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết,
trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực”[3].
0 nhận xét :
Đăng nhận xét