Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Chủ Nhật, 4 tháng 7, 2021

Chương 3. Chủ nghĩa duy vật lịch sử

I. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI

1. Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội

- Sản xuất vật chất là một loại hình hoạt động thực tiễn với mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Với nghĩa như vậy, sản xuất vật chất là một loại hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.

Sản xuất vật chất có các yếu tố cơ bản:

+ Đối tượng lao động

+ Con người (lực lượng lao động xã hội)

+ Công cụ và phương tiện lao động

+ Qui luật của sản xuất vật chất.

- Sn xuất vt cht giữ vai trò quyết định đối với sự tồn ti phát trin của xã hội, là hot động nn tng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; cơ sở của sự hình thành, biến đổi phát trin của xã hội loài người.

2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất).

       a. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

- Phương thức sản xuất là cách thức mà con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.

Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.

- Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong sản xuất vật chất của xã hội, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, trình độ của các quá trình sản xuất vật chất khác nhau trong xã hội.

Xét về kết cấu lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố:

+ Lao động (con người) với trình độ sản xuất thể hiện ở kinh nghiệm sản xuất, ở kỹ năng khi sử dụng tư liệu sản xuất và năng lực sáng tạo ra công cụ và phương tiện lao động.

+ Tư liệu sản xuất: Bao gồm có tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động và phương tiện lao động. Tư liệu lao động là những vật thể hay phức hợp vật thể mà con người sử dụng tác động vào đối tượng lao động. Trong đó công cụ lao động là yếu tố động và cách mạng nhất của lực lượng sản xuất.

+ Mối quan hệ giữa tư liệu sản xuất và lao động. Trong đó yếu tố lao động bao giờ cũng giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất. Bởi vì, hoạt động của con người sẽ trực tiếp dẫn đến sự biến đổi của đối tượng lao động theo những mục đích của mình. Đồng thời để có thể biến đổi đối tượng lao động, thì con người còn sáng tạo ra những công cụ lao động và phương tiện lao động.

- Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người và con người trong quá trình sản xuất vật chất.

Kết cấu của quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt quan hệ cơ bản sau:

+ Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Xét về mặt lịch sử quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản, đó là sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.

+ Quan hệ trao đổi hoạt động, địa vị và quyền tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ này hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bởi vì, những chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, thì họ sẽ là người nắm vai trò tổ chức và quản lý sản xuất vật chất của xã hội.

+ Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ này phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bới vì, chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất thì đồng thời họ là người có mức hưởng thụ nhiều hơn, và là người có quyền quyết định phân phối sản phẩm vật chất của xã hội.

Trong ba mặt quan hệ của quan hệ sản xuất đều có sự tác động qua lại lẫn nhau. Nhưng quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ giữ vai trò quyết định trong quan hệ sản xuất.

       b. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất

+ Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bao giờ cũng bắt đầu từ từ sự thay đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết là người lao động (trình độ lao động) và công cụ lao động... tất yếu dẩn đến sự thay đổi và phát triển của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

+ Trong một phương thức sản xuất lực lượng sản xuất phát triển đến một giới hạn nhất định sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất cũ đòi hỏi thay thế một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.

+ Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất phản ánh mâu thuẫn cơ bản của một xã hội nhất định. Việc giải quyết mâu thuẫn đó thông qua một cuộc cách mạng xã hội nhất định.

Ví dụ: Trong phương thức sản xuất địa chủ phong kiến cuối thời kỳ phục hưng và cận đại phản ánh mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với sự xuất hiện của sản xuất công nghiệp đại diện cho vai trò của giai cấp tư sản với quan hệ sản xuất cũ của giai cấp địa chủ đã lỗi thời không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới đòi hỏi xóa bỏ quan hệ sản xuất địa chủ xây dựng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thông qua cách mạng tư sản.

- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất

Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất theo hai khuynh hướng chung:

+ Thứ nhất, có thể thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nó có ý nghĩa thúc đẩy, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.

+ Thứ hai, ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời không phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng cuối cùng thì quan hệ sản xuất cũ cũng bị thay thế bởi một quan hệ sản xuất cao hơn, tiến bộ hơn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

- Ý nghĩa phương pháp luận và thực tiễn

+ Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất khẳng định lịch sử phát triển của của xã hội là lịch sử của các phương thức sản xuất vật chất khác nhau theo một quá trình từ thấp đến cao. Đó là từ phương thức sản xuất nguyên thủy đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

+ Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước là quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thực chất là quá trình chuyển hóa từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và hiện đại…

3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội).

       a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

- sở h tầng dùng đ chỉ toàn bộ những quan h sn xuất ca mt hi trong sự vn động hin thực của chúng hợp thành cơ cu kinh tế ca hi đó. Bao gồm quan hệ sản xuất thống trị; quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống.

- Kiến trúc thượng tng dùng đ ch toàn b h thống kết cu các hình thái ý thức hội cùng với các thiết chế chính trị-xã hội tương ứng, được hình thành trên mt cơ sở h tng nhất đnh. Bao gồm hệ thống các hình thái ý thức hội (hình thái ý thc chính trị, pháp quyn, tôn giáo...) các thiết chế chính tr hi tương ứng ca chúng (nhà nước, đng, giáo hội...)

b. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

Cơ s h tng quyết đnh nội dung và tính cht ca kiến trúc thượng tng; nội dung tính cht ca kiến trúc thượng tng sự phn ánh đi với cơ sở h tng. Tương ứng với mt cơ sở h tng s sn sinh ra mt kiến trúc thượng tng phù hợp, tác dụng bo v cơ sở h tng đó.

+ Cơ sở h tng quyết đnh sự biến đổi ca kiến trúc thượng tng; những biến đổi trong cơ sở h tng tạo ra nhu cầu khách quan phi có sự biến đổi trong kiến trúc thượng tng; do đó sự biến đổi ca kiến trúc thượng tng là sphn ánh đối với sự biến đổi ca cơ sở h tng.

- Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

S tác động ca kiến trúc thượng tng với sở h tng thể thông qua nhiu phương thức, hình thức tùy thuộc vào bn cht của mi nhân tố trong kiến trúc thượng tng, phụ thuộc vào vai trò, v trí ca nó và những điu kin c th.

Trong điu kin kiến trúc thượng tng có yếu tố nhà c thì phương thức hình thức tác động ca các yếu tố khác tới sở kinh tế phi thông qua nhân t nhà nước pháp lut mới thực sự phát huy vai trò thực tế ca nó. Nhà nước nhân t tác đng trc tiếp mnh mẽ nht tới cơ sở h tng kinh tế ca hội

S tác động ca kiến trúc thượng tng đi với cơ sở hạ tng theo nhiu xu hướng mc tiêu, thm chí các xu hướng không ch khác nhau mà còn có th đối lp nhau, điều đó phn ánh tính cht mâu thun lợi ích ca các giai cấp, các tầng lớp hội khác nhau.

S tác động ca kiến trúc thượng tng đi với cơ sở h tng có th din ra theo xu hướng tích cực hoc tiêu cực. Khi các yếu tố ca kiến trúc thượng tng phù hợp với nhu cầu khách quan ca sự phát trin kinh tế nó s to ra tác động tích cc thúc đẩy sự phát trin kinh tế, ngược li nếu các yếu tố ca kiến trúc thượng tng không phù hợp sẽ kìm hãm, phá hoi sự phát trin kinh tế. Tuy nhiên, dù kiến trúc thưng tng tác động như thế nào tới cơ s hạ tng thì nó cũng không thể gi vai trò quyết đnh cơ sở h tng ca hội.

c. Ý nghĩa trong đời sống xã hội

- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội nghiên cứu lịch sử của xã hội là lịch sử của các nền kinh tế, chính trị xã hội theo một quá trình từ thấp đến cao...

- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức và vận dụng quy luật này phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam. Đó là đa dạng hóa các thành phần kinh tế vận động theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cơ sở hạ tầng hiện nay ở Việt Nam có năm thành phần kinh tế như kinh tế tư nhân của người sản xuất nhỏ; kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa; kinh tế có vốn đầu tư từ nước ngoài; kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa là quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và tiếp tục khẳng định vai trò của hệ tư tưởng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.

Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những hình thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

4. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên

a. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội

Hình thái kinh tế - hi mt phạm trù bn ca chủ nghĩa duy vt lịch sử dùng đ ch hội từng giai đon lịch sử nht định, với mt kiu quan hệ sn xut đc trưng cho hội đó phù hợp với mt trình đ nht định ca lc lưng sn xut với mt kiến trúc thượng tng tương ng được xây dựng trên nhng quan h sn xut y.

Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản xuất; quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng); kiến trúc thượng tầng. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội khác nhau. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.

hội loài người đã biết đến 5 hình thái kinh tế - xã hi tương ứng với 5 phương thức sn xuất: Hình thái kinh tế - hi cng đng nguyên thy, hình thái kinh tế - hi chiếm hữu l, hình thái kinh tế - hi phong kiến, hình thái kinh tế - hội bn chủ nghĩa, hình thái kinh tế - hi cộng sn ch nghĩa .

b. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người

Tính cht lịch sử - tự nhiên ca quá trình phát triển các hình thái kinh tế - hội được th hiện ở các nội dung sau:

- Một là, s vn động và phát trin ca xã hội tuân theo c quy luật khách quan, đó là c quy lut ca chính bn thân cu trúc hình thái kinh tế xã hội mà trưc hết là quy lut quan h sn xut phù hp vi trình đ phát trin ca lc ng sn xut, quy lut kiến trúc thưng tng phù hp vi cơ s h tng

- Hai là, nguồn gc ca mi sự vn động, phát trin ca hội đu có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ s phát trin ca lực lưng sn xut hội.

- Ba là, quá trình phát trin ca các hình thái kinh tế - hi, tức quá trình thay thế ln nhau ca các hình thái kinh tế - hi do sự tác động ca các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - hi không tn ti vĩnh vin chỉ tn ti trong những giai đon lịch s nht định.

- Vai trò ca nhân t ch quan đối với tiến trình lịch sử:

S hình thành, phát trin thay thế ln nhau ca các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử trước hết do tác động ca các quy lut khách quan nhưng đồng thời còn chịu tác động ca các nhân t ch quan như điu kin địa lý, tương quan lực lượng giai cấp, tầng lớp hội, truyn thng văn hóa, điu kin quốc tế... Chính vì vy, tiến trình phát trin ca mi cộng đồng người có th din ra với những con đường, hình thức phức tp, đa dng phong phú...Tính cht phong phú đa dng ca tiến trình phát trin các hình thái kinh tế - hi thể bao hàm những bước phát trin “b qua” mt hay mt vài hình thái kinh tế - hi nhất định. Tuy nhiên s “b qua” đó phi gn với nhng điu kin khách quan ch quan nht đnh.

S thng nhất bin chng gia nhân t khách quan nhân t ch quan đi với sự vn động, phát trin ca hội:

Lịch sử phát trin của mi cộng đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tt yếu quy lut xã hội, vừa chịu tác động đa dng ca các nhân t khác nhau, trong đó c nhân tố hot động ch quan ca con người, từ đó lịch sử phát trin ca xã hi được biu hin ra lịch sử thng nht trong tính đa dng đa dng trong tính thng nht ca nó.

c. Giá trị khoa học và ý nghĩa cách mạng

- Thứ nhất, theo luận hình thái kinh tế - hi, sản xuất vt cht s ca đời sng hi, phương thức sn xuất quyết định trình đ phát trin ca nn sn xut cũng nhân tố quyết định trình đ phát trin ca đời sống hi.

- Thứ hai, xã hội mt th sống đng, trong đó các phương din ca đời sng xã hội tn tại trong mt h thng cu trúc cht ch, tác động qua li với nhau, trong đó quan hệ sn xut đóng vai trò là quan h cơ bn nhất, quyết định các quan hệ khác vì vy, đ lý gii các vn đ đời sng xã hội cần xuất phát từ quan hệ sn xut hin thực ca hi đ phân tích các phương din khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa hc...) ca đời sng hi mi quan hệ giữa chúng.

- Thứ ba, sự vn động, phát trin ca hội quá trình lịch sử - tự nhiên, din ra theo quy lut khách quan ch không phải theo ý mun ch quan, do đó muốn nhận thức và giải quyết đúng đn nhng vấn đ thực tế ca đời sống hội thì phi nghiên cứu quy luật vn động, phát trin ca hội.

II. GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC

1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp

       a. Giai cấp

- Định nghĩa giai cấp

Theo V.I.Lênin: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”[1].

+ Giai cấp kết quả ca sự phân hóa xã hi do s đối lp giữa h vđịa v trong mt chế đ kinh tế xã hi nhất định. Cho nên giai cấp là một phạm trù lịch sử.

+ Trong xã hội, giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước và trở thành giai cấp thống trị xã hội.

+ Giai cấp không chỉ là khái niệm của khoa học chính trị mà còn là khái niệm phản ánh mối quan hệ khách quan giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị của xã hội; phản ánh mối quan hệ kinh tế, chính trị giữa các tập đoàn người trong một điều kiện lịch sử nhất định.

- Nguồn gốc giai cấp

+ Nguồn gc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong hi phát trin ca lực lượng sn xut trong gia đoạn cuối của phương thức sản xuất nguyên thủy. Đó là quá trình con người tìm ra kim loại kim sử dụng kim loại tạo ra công cụ lao động mới dẫn đến phân công lao động phát triển và năng suất lao động xã hội cao hơn. Sự phát triển của lực lượng sản xuất mới mâu thuẫn với quan hệ sản xuất cũ, đòi hỏi xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới dẫn đến sự ra đời của quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ.

xã hội của giai cấp trong xã hội là giải quyết vấn đề binh trong các cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc người trong xã hội nguyên thủydẫn đến một tầng lớp thấp nhất trong xã hội đó là sự xuất hiện giai cấp nô lệ và người chủ của giai cấp này là giai

+ Ngun gc trực tiếp ca giai cp trong hi từ sự phân hóa hi do sự ra đời, tn ti ca chế đ hữu đối với những tư liu sn xuất ch yếu ca hội. Sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, một mặt do sự phân hóa trong nội bộ các công xã trong xã hội nguyên thủy dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo thành người bóc lột và người bị bóc lột.Điều này diễn ra trong giai đoạn cuối cùng của xã hội nguyên thủy khi những người đứng đầu các bộ lạc, bộ tộc lợi dụng quyền hành của mình chiếm đoạt tư liệu sản xuất và của cải dư thừa àm của riêng. Hơn nữa, nguồn gốc dẫn đến sự phân chia xã hội thành giai cấp, sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất còn có nguồn gốc từ sự phân chia chiến lợi phẩm từ các cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc về vấn đề tù binh và phân chia tù binh của các bộ tộc chiến thắng trong các cuộc chiến tranh đối với các bộ tộc chiến bại đã tạo ra một tầng lớp thấp nhất trong xã hội tiền thân của giai cấp nô lệ. Giai cấp chủ nô và nô lệ là giai cấp đầu tiên khi xã hội phân hóa thành giai cấp

- Kết cấu xã hội - giai cấp

Trong một kết cấu xã hội - giai cấp bao giờ cũng gồm có hai giai cấp cơ bản và những giai cấp không cơ bản, hoặc các tầng lớp xã hội trung gian.

Giai cấp cơ bản là giai cấp gắn với phương thức sản xuất thống trị, là sản phẩm của những phương thức sản xuất thống trị nhất định. Giai cấp không cơ bản là những giai cấp gắn với phương thức sản xuất tàn dư, hoặc mầm mống trong xã hội.

Kết cấu xã hội - giai cấp luôn có sự vận động và biến đổi không ngừng. Sự vận động, biến đổi đó diễn ra không chỉ khi xã hội có sự chuyển biến các phương thức sản xuất, mà cả trong quá trình phát triển của mỗi phương thức sản xuất.

b. Đấu tranh giai cấp

- Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp

V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp là “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”[2].

- Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp

Đu tranh giai cấp giữ vai trò phương thức, động lực cơ bản ca sự tiến bộ, phát trin hi trong điu kin hi sự phân hóa thành đối kháng giai cp.

Lịch sử nhân loi từ khi sự phân hóa đến nay về thực cht ch lịch s ca những cuộc đu tranh giai cấp được biu hin dưới nhiu hình thức đa dng với nhng mc đ khác nhau mang sắc thái khác nhau. Kết quả cuối cùng ca những cuc đu tranh đó đu dẫn tới sự ra đời ca phương thức sn xut mới thông qua đỉnh cao của là cách mng hội.

Đu tranh giai cấp không ch là động lực bn ca sự phát trin lịch s còn phương thức bn ca s tiến b phát trin hội, nhm gii quyết nhng u thun đối kháng trong đời sng kinh tế, chính trị, hội.

2. Dân tộc

a. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc

Để tồn tại và phát triển, con người phải gắn kết với nhau thành những cộng đồng. Trong quá trình phát triển của xã hội, trước khi dân tộc ra đời, các hình thức cộng đồng người cũng biến đổi từ thị tộc đến bộ lạc, bộ tộc và dân tộc. Trong các hình thức đó thì dân tộc là hình thức cộng đồng người cao nhất và phổ biến nhất của xã hội loài người hiện nay.

- Thị tộc là cộng đồng người (gồm khoảng vài trăm người) có cùng một huyết thống. Thị tộc là một đơn vị sản xuất và là một hình thức tồn tại cơ bản của xã hội nguyên thuỷ. Do trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, nguồn sống chủ yếu dựa vào trồng trọt và chăn nuôi, vì vậy vai trò của người phụ nữ trong thị tộc có một vị trí đặc biệt.

- Bộ lạc là một tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc do có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau, trong đó có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc. Đặc trưng của bộ lạc là có cùng ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa, tín ngưỡng và cùng chung sống trên một vùng lãnh thổ.

- Bộ tộc là một cộng đồng dân cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ nhất định. Bộ tộc đông đảo hơn bộ lạc.

       b. Dân tộc - hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay

- Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử trên cơ sở một lãnh thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, một nền kinh tế thống nhất, một nền văn hóa và tâm lý, tính cách thống nhất, với một nhà nước và pháp luật thống nhất. Dân tộc là một cộng đồng dân cư gồm có những đặc điểm chung thống nhất rất chặt chẽ:

+ Thứ nhất, cộng đồng về lãnh thổ.

+ Thứ hai, cộng đồng về kinh tế.

+ Thứ ba, cộng đồng về ngôn ngữ.

+ Thứ tư, cộng đồng về văn hóa, về tâm lý.

- Quá trình hình thành các dân tộc ở châu Âu và đặc thù sự hình thành dân tộc ở châu Á.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Lịch sử cho thấy, dân tộc có thể được hình thành từ một bộ tộc phát triển lên, song đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại.

C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, ở châu Âu dân tộc hình thành theo hai phương thức chủ yếu gắn liền với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Phương thức thứ nhất, dân tộc hình thành từ nhiều bộ tộc khác nhau trong một quốc gia. Quá trình hình thành dân tộc ở đây vừa là một quá trình thống nhất lãnh thổ, thống nhất thị trường; đồng thời, cũng là một quá trình đồng hoá các bộ tộc khác nhau thành một dân tộc duy nhất, một quốc gia dân tộc độc lập, như ở các nước Đức, Ý, Pháp...

Phương thức thứ hai, do điều kiện chế độ phong kiến chưa bị thủ tiêu, chủ nghĩa tư bản phát triển còn yếu, dân tộc được hình thành từ một bộ tộc. ở đây không có quá trình đồng hoá các bộ tộc mà chỉ có quá trình thống nhất các lãnh thổ phong kiến thành lập một quốc gia gồm nhiều dân tộc, trong đó mỗi dân tộc hình thành từ một bộ tộc riêng, như trường hợp ở các nước Nga, Áo, Hung .v.v...

Quá trình hình thành, phát triển dân tộc diễn ra hết sức lâu dài, đa dạng và phức tạp. ở các nước châu Âu, sự hình thành và phát triển của dân tộc trải qua các thời kỳ chính: gắn liền với cuộc cách mạng tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo; gắn liền với phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giải phóng dân tộc; và thời kỳ các dân tộc xã hội chủ nghĩa ra đời. Sự hình thành các dân tộc trong lịch sử trên thế giới còn tuỳ điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, khu vực. Sự hình thành các quốc gia, dân tộc ở phương Đông có tính đặc thù riêng. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... dân tộc được hình thành rất sớm, không gắn với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.

- Sự hình thành dân tộc Việt Nam có nét đặc thù riêng sau đây:

+ Thứ nhất, sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam cũng giống như các dân tộc phương Đông, không gắn liền với sự hình thành và phát triển của phương thức tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là động lực thúc đẩy sự hình thành dân tộc nước ta cũng không thuộc giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.

+ Thứ hai, dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc phương Đông, ra đời và phát triển gắn với phương thức sản xuất châu Á - một phương thức sản xuất đặc thù.

Về kinh tế, người Việt Nam cho đến cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX vẫn sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp – nông nghiệp độc canh cây lúa nước, phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên.

Về văn hoá, dân tộc Việt Nam sớm hình thành nền văn minh rực rỡ riêng của mình như văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn, mặc dù sau đó chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa và ấn Độ.

+ Thứ ba, dân tộc Việt Nam hình thành sớm và phát triển bền vững như ngày nay cùng truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm từ các phía, dưới sự lãnh đạo của triều đại phong kiến. Mối quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại

c. Quan hệ giai cấp - dân tộc

Giai cấp và dân tộc là hai phạm trù khác nhau, chỉ có mối quan hệ khác nhau trong xã hội, cho nên mỗi nhân tố có vai trò lịch sử khác nhau đối với sự phát triển xã hội.

Trong lịch sử nhân loại, giai cấp xuất hiện trước dân tộc, và trong tương lai khi giai cấp mất đi, dân tộc vẫn tồn tại lâu dài. Song, theo quan điểm Mácxít, vấn đề dân tộc không thể tách khỏi vấn đề giai cấp. Giải phóng dân tộc với vấn đề giải phóng giai cấp có quan hệ mật thiết với nhau. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc, đồng thời dân tộc bao giờ cũng được chỉ đạo bởi một giai cấp nhất định.

Quan hệ giai cấp - với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất trong xã hội có giai cấp - là nhân tố suy cho cùng có vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, quy định bản chất xã hội của dân tộc, quy định tính chất của mối quan hệ giữa các dân tộc. Biểu hiện rõ nhất trong lịch sử là vai trò của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản đối với sự hình thành các dân tộc hiện đại ở châu Âu. Đối với sự hình thành một số các dân tộc phương Đông diễn ra trước chủ nghĩa tư bản thì vai trò này thuộc về tập đoàn xã hội đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến đương thời, đó là những tập đoàn phong kiến tiến bộ.

Thực tiễn lịch sử nhân loại đã xác định kết luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin rằng, muốn xoá bỏ triệt để nạn áp bức dân tộc thì phải xoá bỏ nguồn gốc của nó là chế độ người bóc lột người.

Khi giai cấp tư sản còn giữ vai trò thống trị thì vẫn còn nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác, còn chủ nghĩa thực dân và còn tư tưởng sô vanh rất nặng nề. Điều đó giải thích vì sao khi các dân tộc tư sản hình thành thì các cuộc chiến tranh xâm lược lại diễn ra trên quy mô và trong phạm vi rộng lớn chưa từng có trong lịch sử. Đến khi giai cấp vô sản cầm quyền thì một trong những mục tiêu mà cách mạng đặt ra và giải quyết là “quyền tự quyết dân tộc ”, là sự bình đẳng giữa các dân tộc.

Đối với Việt Nam, sự nghiệp giải phóng dân tộc không thể thành công nếu không có sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó, nếu không thực hiện được khối liên minh bền vững giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác làm nòng cốt cho khối đại đoàn kết dân tộc.

Trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đem lại; xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá tăng nhanh làm cho quan hệ giao lưu, hiểu biết giữa các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Đó là một trong những điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc hiện nay. Một trong những đặc điểm chủ yếu của thời đại ngày nay là đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau.

d. Quan hệ giai cấp, dân tộc với nhân loại

Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp và dân tộc. Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai đoạn lịch sử nhất định tất yếu hình thành các quan hệ giai cấp, dân tộc. Giai cấp thống trị trong phương thức sản xuất còn phù hợp với quy luật vận động của lịch sử không những là đại biểu cho lợi ích chân chính của dân tộc, mà còn có vai trò to lớn thúc đẩy sự tiến bộ của văn minh nhân loại. Ngược lại, khi giai cấp thống trị dân tộc trở lên lỗi thời, phản động, thì lợi ích của nó về căn bản mâu thuẫn với lợi ích chung của dân tộc và lợi ích toàn nhân loại.

Trong xã hội phong kiến, giai cấp tư sản là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Lúc đó lợi ích của giai cấp tư sản phù hợp với lợi ích của dân tộc và nhân loại, vì vậy giai cấp tư sản đã có đóng góp tích cực trong việc hình thành dân tộc và thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng nhân loại.

Giai cấp tư sản sau khi trở thành giai cấp thống trị xã hội, chúng đã nhanh chóng củng cố quyền lực của mình để duy trì áp bức giai cấp và áp bức dân tộc. Hiện nay, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đang đặt nhân loại đứng nhiều vấn đề toàn cầu cấp bách, như ô nhiễm môi trường sống; cạn kiệt tài nguyên; đói nghèo; bệnh tật; khủng bố.v.v.. Giai cấp tư sản thực sự là trở lực chính của tiến bộ xã hội hiện nay. Giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích căn bản của dân tộc và nhân loại hiện nay, do vậy muốn giải phóng mình giai cấp công nhân phải đồng thời giải phóng dân tộc và giải phóng toàn nhân loại. Đó không chỉ là sự nghiệp giải phóng một giai cấp, mà còn là sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người nói chung.

Tuy nhiên, vấn đề nhân loại không phải bị chi phối một cách thụ động bởi vấn đề dân tộc và giai cấp, mà có vai trò tác động trở lại rất quan trọng. Trước hết, sự tồn tại của nhân loại là tiền đề, là điều kiện tất yếu thường xuyên của sự tồn tại dân tộc và giai cấp. Sự phát triển của thế giới mà trước hết là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội nói chung đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho con người cải tạo tự nhiên và xã hội, phục vụ cho cuộc sống của mình.

Tác động của nhân loại đến dân tộc và giai cấp còn được thể hiện ở chỗ, sự phát triển về mọi mặt của nhân loại tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp. Lịch sử đã khẳng định, sự phát triển của nhân loại qua mỗi giai đoạn đã từng bước tác động to lớn đến phong trào giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Sự phát triển đó tạo ra những điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh của các giai cấp tiến bộ, cách mạng để lật đổ ách thống trị của các giai cấp thống trị, phản động.

III. NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI

1. Nhà nước

       a. Nguồn gốc của nhà nước

Do lực lượng sản xuất phát triển, sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp, xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời trong xã hội phân chia thành những giai cấp đối lập nhau: giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ.

Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là chủ nô và nô lệ, dẫn tới nguy cơ tiêu diệt cả hai giai cấp và tiêu diệt cả xã hội. Để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước. Nhà nước là một phạm trù lịch sử vì nhà nước chỉ xuất hiện gắn liền với những điều kiện lịch sử nhất định.

       b. Bản chất của nhà nước

Nhà nước, về bản chất, là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Bản chất của một nhà nước do quan hệ sản xuất thống trị qui định. Ví dụ: bản chất nhà nước quân chủ của giai cấp địa chủ do quan hệ sản xuất phong kiến qui định. Đó là nước bót lột, bóc lột bằng địa tô khi giai cấp địa chủ cho nông dân thuê ruộng đất canh tác...

c. Đặc trưng cơ bản của nhà nước

Một là, nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Khác với tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên thủy được hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, Nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú.

Hai là, nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát, nhà tù, v.v.) và bộ máy quản lý hành chính. Ba là, nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị. Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khóa, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị.

       d. Chức năng cơ bản của nhà nước

- Chức năng thống trị chính trị của giai cấp chịu sự qui định bởi tính giai cấp của nhà nước. Là công cụ thống trị giai cấp, nhà nước thường xuyên sử dụng bộ máy quyền lực để duy trì sự thống trị đó thông qua hệ thống chính sách và pháp luật.

- Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở chỗ, nhà nước nhân danh xã hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội, điều hành các công việc chung của xã hội.

Ngoài chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội, nhà nước còn có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.

e. Các kiểu và hình thức nhà nước

- Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào. Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau.

Trong lịch sử của xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế - xã hội: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn hình thái kinh tế - xã hội đó đã có bốn kiểu nhà nước:

+ Kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ, là nhà nước của giai cấp chủ nô tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là chính thể quân chủ trung ương tập quyền và phân quyền. Đặc biệt trong chế độ Hy Lạp La Mã cộ đại còn có hình thức nhà nước chính thể cộng hòa. Nhà nước này phản ánh nền dân chủ sơ khai đại diện cho tầng lớp dân chủ của giai cấp chủ nô còn gọi là nhà nước dân chủ Athen cổ đại. Tổ chức quyền lực cao nhất của nhà nước này là Viện Nguyên lão do dân bầu và Viện Nguyên lão bầu lên một người đứng đầu nhà nước là nhà vua không theo nguyên tắc cha truyền con nối mà do Viện Nguyên lão bầu hoặc phế truất.

+ Kiểu nhà nước phong kiến, là bộ máy thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến được tổ chức dưới hai hình thức cơ bản: nhà nước phong kiến phân quyền, nhà nước phong kiến tập quyền.

+ Kiểu nhà nước tư sản, là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản, trên cơ sở chiếm hữu tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản.

- Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức, phương thức thc hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước thực chất là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị.

+ Nhà nước của giai cấp chủ nô có hai hình thức. Đó là nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền và phân quyền. Đặc biệt, trong chế độ Hy lạp La Mã ngoài nhà nước quân chủ còn có nhà nước dân chủ sơ khai. Đó là nhà nước dân chủ Athen...

+ Nhà nước của giai cấp địa chủ cũng có hai hình thức. Đó là nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền và phân quyền...

+ Hình thức điển hình của nhà nước dân chủ tư sản là chế độ cộng hòa đại nghị. Ở một số nước nhà nước lại được tổ chức dưới hình thức quân chủ lập hiến tồn tại cho đến ngày nay ở nhiều quốc gia. Trong nhà nước đó vua là người đứng đầu quốc gia trên danh nghĩa, không có thực quyền. Quyền lực nằm trong tay quốc hội và nội các và người đứng đầu là thủ tướng do dân bầu thông qua phổ thông đầu phiếu.

Lịch sử diễn ra trong thế kỷ XX đã chứng minh rằng, trong những trường hợp nhất định, khi lợi ích tư sản đòi hỏi, giai cấp tư sản sẵn sàng thu hẹp quyền tự do dân chủ, thậm chí sẵn sàng từ bỏ “hình thức chính trị tốt nhất của chủ nghĩa tư bản”- tức là vỏ dân chủ, để lộ nguyên hình là một nền chuyên chính, công khai dưới hình thức độc tài phát xít- một hình thức biểu hiện của chuyên chính tư sản.

+ Theo V.I.Lênin nhà nước vô sản là “nhà nước kiểu mới’, “ là nửa nhà nước” khẳng định chuyên chính vô sản không những cho giai cấp vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản, mà còn cho suốt cả thời kỳ lịch sử từ chế độ tư bản chủ nghĩa đến “xã hội không có giai cấp ” đến chế độ cộng sản chủ nghĩa.

Nhà nước vô sản có hai chức năng: bạo lực trấn áp và tổ chức xây dựng, trong đó tổ chức xây dựng là thuộc tính cơ bản nhất của chuyên chính vô sản.

Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân cần phải có sự hỗ trợ, cộng tác, liên minh vững chắc với những người lao động khác. Do đó, chuyên chính vô sản là một loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp công nhân với nhân dân lao động. Nhà nước vô sản là chính quyền của nhân dân; là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất.

2. Cách mạng xã hội

a. Cách mạng xã hội

Cách mng hi khái nim dùng đ ch bước chuyn từ hình thái kinh tế - hội ở trình đ thấp lên mt hình thái kinh tế - hi trình đ cao hơn, được tiến hành trên mi nh vực kinh tế, chính trị, văn hóa...ca hội. Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp, là cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền, thiết lập một chính quyền mới tiến bộ hơn.

Về bản chất cách mạng xã hội là một cuộc cách mạng chính trị. Vì vấn đề cơ bản của các mạng xã hội là vấn đề nhà nước. Đó là quá trình xóa bỏ nhà nước của giai cấp thống trị này thiết lập một nhà nước khác của giai cấp thống trị khác trong lịch sử. Ví dụ: cách mạng tư sản là một cuộc cách mạng xã hội lật đổ nhà nước của giai cấp địa chủ xây dựng nhà nước của giai cấp tư sản. Cuộc cách mạng tư sản đầu tiên của giai cấp tư sản là cuộc cách mạng tư sản ở Hà lan cuối thế kỷ XVI mở đầu quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản trên thế giới.

Thuật ngữ cách mạng, theo nghĩa chung nhất là một bước ngoặt trong sự phát triển của các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là cách mạng xã hội, cách mạng công nghiệp, cách mạng công nghệ, cách mạng tư tưỡng văn hóa... sự khác nhau căn bản giữa cách mạng xã hội với các cuộc cách mạng khác trong lịch sử là vấn đề nhà nước trong cách mạng xã hội.

b. Nguồn gốc, động lực và đối tượng và vai trò lãnh đạo của cách

mạng xã hội

- Nguồn gốc

Nguồn gốc sâu xa ca cách mạng hi t mâu thun giữa sự phát trin lực lượng sn xuất vi sự m m ca quan hsn xut đã tr nên li thời mà không mt cuộc ci cách kinh tế hay chính trị nào gii quyết được.

Nguồn gốc ch quan sự phát trin nhận thức t chức ca giai cấp cách mạng, tc giai cp đi biu cho phương thức sn xut mới tiến bhơn, từ đó to ra phong trào đu tranh giai cấp từ tự phát đến t giác khi s kết hợp chín muồi ca các nhân t khách quan ch quan, tức to được thời cơ cách mạng thì khi đó tất yếu cách mng s bùng n.

Động lực cách mạng là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng, có tính tự giác, tích cực, chủ động, kiên quyết, triệt để cách mạng, có khả năng lôi cuốn, tập hợp các giai cấp, tầng lớp khác tham gia phong trào cách mạng.

Đối tượng của cách mạng xã hội là những giai cấp và những lực lượng đối lập cần phải đánh đổ của cách mạng. Ví dụ: Trong cách mạng tháng Tám ở Việt Nam, đối tượng của cách mạng là chính quyền thực dân và phong kiến.

Giai cấp lãnh đạo cách mạng xã hội là giai cấp có hệ tư tưởng tiến bộ, đại diện cho xu hướng phát triển của xã hội, cho phương thức sản xuất tiến bộ. Các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu thế kỷ XVII –XVIII do giai cấp tư sản lãnh đạo, vì giai cấp tư sản lúc đó có hệ tư tưởng tiến bộ, chủ trương tự do, bình đẳng, bác ái, đấu tranh chống lại hệ tư tưởng phong kiến là thần học Ki tô giáo, chống giai cấp địa chủ phong kiến. Giai cấp tư sản là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiến bộ hơn so với phương thức sản xuất phong kiến đã tỏ ra lạc hậu, lỗi thời.

Cách mạng xã hội diễn ra rất phong phú đa dạng. Điều đó phụ thuộc vào điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng cách mạng xã hội.

Điều kiện khách quan của cách mạng xã hội là điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, chính trị bên ngoài tác động đến, là tiền đề diễn ra các cuộc cách mạng xã hội.

Về kinh tế, khi trong một hình thái kinh tế -xã hội, hai yếu tố của phương thức sản xuất là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mâu thuẫn gay gắt với nhau, làm cản trở sự phát triển của phương thức sản xuất, cũng có nghĩa là cản trở sự phát triển của cả hình thái kinh tế - xã hội, của cả xã hội. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến sự bùng nổ của cách mạng xã hội. Cùng với điều kiện kinh tế, các cuộc cách mạng xã hội nổ ra còn do điều kiện chính trị - xã hội.

c. Phương pháp cách mạng

Mục tiêu của cách mạng xã hội là giành chính quyền bằng cách đập tan (xóa bỏ) chính quyền đã lỗi thời, phản động, cản trở cho sự phát triển của xã hội, thiết lập một trật tự xã hội mới tiến bộ hơn. Để thực hiện được mục tiêu cách mạng cần có các hình thức và phương pháp cách mạng phù hợp.

-     Phương pháp cách mạng bạo lực là hình thức cách mạng khá phổ biến.Cách mạng bạo lực là hình thức tiến hành cách mạng thông qua bạo lưc để giành chính quyền, là hành động của lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp lãnh đạo cách mạng vượt qua giới hạn luật pháp của giai cấp thống trị hiện thời, xác lập nhà nước của giai cấp cách mạng.

-     Phương pháp hòa bình cũng là một phương pháp cách mạng để giành chính quyền. Phương pháp hòa bình là phương pháp đấu tranh không dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền trong điều kiện cho phép.

d. Vấn đề cách mạng xã hội trên thế giới hiện nay   

Trong thời đại ngày nay, xã hội đã có nhiều đổi khác so với những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước. Xã hội hiện đại bị chi phối bởi đặc điểm của thời đại: cuộc cách mạng khoa học - công ngh, nền kinh tế tri thức ở các nước phát triển, xu hướng đối thoại thay cho xu hướng đối đầu, những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại phần nào “làm dịu” mâu thuẫn giai cấp, sự xung đột về giai cấp vẫn còn song không gay gắt như thế kỷ XIX - XX, thay vào đó là sự xung đột về kinh tế, sắc tộc, tôn giáo giữa các quốc gia, khu vực. Cùng với đó là sự ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, nạn đói và bệnh tật ở nhiều nước, cũng là những nguyên nhân tạo ra sự bất ổn trong thế giới đương đại. Những mâu thuẫn xã hội trong xã hội hiện đại tiềm ẩn khả năng những biến động xã hội theo chiều hướng tiến bộ dưới hình thức cải tổ, cải cách, đổi mới như ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và những hình thức hợp tác mới trên cơ sở các lực lượng xã hội có thể chấp nhận được ở các nước theo các xu hướng chính trị khác nhau hiện nay.

Vì lợi ích chung của toàn thế giới, các nước có chế độ xã hội và chính trị khác nhau vẫn có thể thông qua các tổ chức quốc tế, đối thoại, hòa giải những tranh chấp về kinh tế, lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên thiên nhiên,.. và những bất đồng khác. Xu hướng đối thoại, hòa giải đang là xu hướng chủ đạo hiện nay. Các cuộc chiến tranh dưới màu sắc dân tộc, tôn giáo, nhân quyền dưới chiêu bài “nhân đạo”, chống vũ khí hóa học, vũ khí sinh học đang bị các thế lực tiến bộ lên án, phản đối.

Xu hướng giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia dân tộc, không phụ thuộc và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đấu tranh cho dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội đang diễn ra mạnh mẽ, ngày càng tỏ ra chiếm ưu thế.

Các quốc gia, dân tộc sẽ đi tới một xã hội dân chủ, tự do, công bằng, văn minh theo cách đi của mình thông qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế và khoa học - công nghệ. Và do đó, dù không có các cuộc cách mạng xã hội điển hình như đã từng diễn ra trong lịch sử, thì các quốc gia dân tộc trên thế giới sẽ phát triển dần dần theo hướng thay đổi từng bộ phận, từng yếu tố, lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thay đổi trước hết về lực lượng sản xuất do cách mạng khoa học - công nghệ mang lại, rồi đến thay đổi quan hệ sản xuất, từ đó dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội tức cơ sở hạ tầng, và do đó thay đổi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội, dẫn đến thay đổi toàn bộ xã hội.

Trong thời đại ngày nay, theo nguyên lý về sự phát triển của triết học Mác, khó có thể để bùng nổ những cuộc cách mạng xã hội điển hình như cách mạng tư sản ở châu Âu thế kỷ XVII – XVIII, cách mạng Tháng Mười ở Nga năm 1917… Cách mạng xã hội sẽ diễn ra dưới hình thức thay đổi dần dần các yếu tố, lĩnh vực của đời sống xã hội.Xã hội sau sẽ phát triển, tiến bộ hơn xã hội trước.

IV. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THÚC XÃ HỘI

       1. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội

       a. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội

- Tồn tại xã hội dùng để chỉ những phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.

Tồn tại xã hội có 3 yếu tố:

+ Hoàn cảnh địa lý: Thời tiết, tài nguyên, đối tượng lao động. Môi trường sống và môi trường hoạt động nói chung của con người. Trong lịch sử có quan điểm tuyệt đối hóa yếu tố này để nói đến vấn đề chủng tộc, phân biệt chủng tộc cũng như về vấn đề tài nguyên có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của xã hội.

Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin hoàn cảnh địa lý là yếu tố tất yếu, thường xuyênkhông giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển xã hội. Hoàn cảnh địa lý có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho cuộc sống của con người. Sự  thay đổi của hoàn cảnh địa lý, một mặt phụ thuộc vào qui luật tự nhiên, mặt khác do sự tác động của con người…

+ Dân số và mật độ dân số: Trong lịch sử có quan điểm tuyệt đối hóa yếu tố này để nói đến vấn đề dân tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của xã hội.

Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin dân số, mật độ dân số là yếu tố tất yếu, thường xuyênkhông giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển xã hội.  Yếu tố hình thành lực lượng lao động xã hội và các cộng đồng người như vấn đề dân tộc…

Sự phát triển dân số tỷ lệ nghịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Bởi vì, một địa phương, khu vực hoặc một quốc gia có trình độ dân trí và sự phát triển kinh tế cao thì tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên giảm, ngược lải một địa phương, khu vực hoặc một quốc gia có trình độ dân trí và sự phát triển kinh tế cao thì tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên giảm. Ở Việt Nam hiện nay, tỉnh nào, khu vực nào trình độ dân trí thấp, khó khăn về kinh tế thì tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên cao và ngược lại...

+ Phương thức sản xuất: Yếu tố giữ vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì PTSX là qui luật chung của sản xuất vật chất vật chất xã hội.

- Ý thức xã hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định. Đó là tình cảm, ý chí, tư tưởng và các lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội như chính trị, pháp quyền…

Kết cấu của ý thức xã hội bao gồm 2 cấp độ:

+ Ý thức thông thường và ý thức lý luận.

Ý thức thông thường (ý thức sinh hoạt đời thường) là những tri thức, quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn thường nhật như tình cảm, sở thích, nguyện vọng, ý chí, những tư tưởng quan điểm riêng lẻ, cụ thể về chính trị, pháp quyền...của con người phản ánh trực tiếp những điều kiện kinh tế xã hội chưa được khái quát, hệ thống hóa thành lý luận thành các học thuyết xã hội

Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm xã hội được hệ thống hóa, khái quát thành các học thuyết xã hội như ý thức chính trị, pha1p quyền…

Ý thức thông thường và ý thức lý luận tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội nhưng chúng có mối liên hệ tác động qua lại. Việc tổng kết, khái quát hóa tri thức kinh nghiệm của ý thức thông thường là một trong những tiền đề khách quaan cho sự hình thành ý thức lý luận. Ngược lại ý thức lý luận không chỉ có khả năng phản ánh bản chất,qui luật của tồn tại xã hội mà nó tác động trở lại ý thức thông thường làm cho ý thức thông thường ngày một hoàn thiện hơn.

+ Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

Tâm lý xã hội là một bộ phận, một cấp độ ý thức thông thường phản ánh ti1nh qui luật của ý thức thông thường. Đó là qui luật tâm lý xã hội và tính đặc thù của tâm lý dân tộc, gia cấp, v.v...Bởi vì, tâm lý xã hội phản ánh toàn bộ tình cảm, ước muốn thói quen… phong tục tập quán, truyền thống văn hóa của xã hội, của một dân tộc nhất định…

Hệ tư tưởng là một bộ phận, một cấp độ phản ánh tính qui luật của ý thức lý luận đó là quá trình hình thành và phát triển của của ý thức xã hội, các học thuyết xã hội…

Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng tuy là hai trình độ, hai phương thức của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội nưng giữa chúng có sự liên hệ tác động quaa lại. Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây trở ngai cho sự hình thành, truyền bá, tiếp thu của con người với một tư tưởng, một học thuyết nhất định. Hệ tư tưởng không hình thành một cách tự phaa1t từ tâm lý xã hội, mà nó hình thành một cách tự giác của quá trình tổng kết những kinh nghiệm của lịch sử hoặc là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học.Ví dụ: Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân không hình thành trực tiếp từ tâm lý xã hội của giai cấp công nhân mà do sự khái quát lý luân từ những kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân và lịch sử tư tưởng nói chung của nhân loại...

Trong xã hội có giai cấp ý thức xã hội mang tính giai cấp. Tính giai cấp của ý thức xã hội không chỉ là sự phản ánh, bảo vệ lợi ích cho các giai cấp khác nhau mà còn thể hiện cuộc đấu tranh về mặt tư tưởng trong đời sống tinh thần của xã hội. Đặc biệt trong thời đại của khoa học công nghệ hiện nay. Chẳng thế, mà trong cộng đồng mạng, trong bách khoa toàn thư mở đã xuất hiện, tồn tại những quan điểm khác nhau, đối lập nhau một cách gay gắt về một vấn đề nào đó thật giả, đúng sai khó phân định. Vấn đề đặt ra, là vấn đề nhận thức, đánh giá tùy thuộc vào trình độ của mỗi người...

2. Quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

- Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

+ Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, nên nó có nguồn gốc và bị qui định bởi tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội.

+ Một khi tồn tại xã hội thay đổi tất yếu dẫn đến sự thay đổi của ý thức xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức…cũng thay đổi theo. Sự thay đổi của ý thức xã hội, có thể phù hợp hoặc không phù hợp nhưng xét về quá trình và lâu dài nhất định sẽ phù hợp với sự thay đổi của tồn tại xã hội.

- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

+  Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội. Bởi vì một mặt, ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh và bị qui định bởi tồn tại xã hội; mặt khác do sức mạnh của thói quen tâm lý, mặt hạn chế của tập quán truyền thống văn hóa và tính lạc hậu, bảo thủ trong một số các hình thái ý thức xã hội cũng tác động ngược lại sự phát triển của tôn tại xã hội, v.v...

+ Ý thức khoa học có tính năng động, sáng tạo, vượt trước tồn tại xã hội. Khoa học không chỉ có khả năng dự báo tính tất yếu trong sự vận động và phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội mà còn dẫn đến sự biến đổi tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội một khi con người vận dụng thành công tri thức khoa học trong hoạt động thực tiễn xã hội. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khoa học trở thành lực lượng vật chất trực tiếp của sản xuất vật chất của xã hội.

+ Sự vận động và phát triển của ý thức xã hội không phải chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định mà nó còn bao hàm sự kế thừa không chỉ trong lịch sử hình thành trong một hình thái ý thức xã hội mà giữa các hình thái ý thức xã hội làm điều kiện tiền đề cho sự phát triển của ý thức xã hội.

+ Sự tác động qua lại giữa các hình thái của ý thức xã hội cũng là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của ý thức xã hội.

+ Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội có tính năng động và sáng tạo. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội, thông qua hướng dẫn hoạt động thực tiễn. C.Mác: “... Lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi được thâm nhập vào quần chúng”. V.I.Lênin: “ không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Hồ Chí Minh: “ thực tiễn mà không có lý luận là thực tiễn mù quáng”

       

3. Các hình thái ý thức xã hội

- Ý thức chính trị.

Ý thức chính trị là hình thái ý thức xã hội chỉ xuất hiện, tồn tại trong xã hội có giai cấp và nhà nước, nó phản ánh các mối quan hệ kinh tế của xã hội bằng chính trị cũng như mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia và thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.

Ý thức chính trị, đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị thống trị có vai trò quaan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Hệ tư tưởng chình trị có vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.

Tính tính cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng chính trị  phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, cách mạng hoặc phản tiến bộ, cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó

- Ý thức pháp quyền.

Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểmcủa một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực thi luật pháp của nhà nước.

Ý thức pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ với ý thức chính trị. Hình thái ý thức pháp quyền cũng phản ánh các mối quan hệ kinh tế của xã hội bằng ngôn ngữ pháp luật.

Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ, do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền. Về nguyên tắc, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức mạng của cưỡng chế của nhà nước mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và tâm lý pháp luật của xã hội.

- Ý thức đạo đức.

Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc, v.v. và về những quy tắc đánh giá, những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với với nhau và giữa các cá nhân với xã hội.

Ý thức đạo đức cùng với ý thức tôn giáo và ý thức thẩm mỹ ra đời rất sớm trong xã hội nguyên thủy. Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng, v.v…phản ánh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, biểu hiện bản chất xã hội của con người. Khác với sự cưỡng chế của nhà nước trong ý thức pháp quyền thì ý thức đạo đức điều tiết những hành vi đạo đức bởi sức mạnh của dư luận xã hội.

Trong ý thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng, nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận bằng con đường lý tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.

Trong tiến trình phát triển của xã hội, giá trị đạo đức không chỉ những quy tắc, tiêu chuẩn đạo đức trong gia đình, giai cấp, dân tộc mà có tính nhân loại. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp đạo đức có tính giai cấp phản ánh và bảo vệ lợi ích cho những giai cấp khác nhau.

- Ý thức khoa học.

Ý thức khoa học vừa là một hình thái của ý thức xã hội, vừa là một hiện tượng xã hội đặc biệt.

Ý thức khoa học với tính cách là một hình thái ý thức xã hội- là hệ thống tri thức phản ánh chân thực dưới dạng lôgic trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm bởi thực thực tiễn. Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là sự khác biệt giữa ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác.

Hình thức biểu hiện đặc thù của ý thức khoa học là phạm trù, định luật, qui luật,v.v…

Tri thức khao xâm nhập vào các hình thái của ý thức xã hội khác, hình thành các khoa học tương ứng với từng hình thái ý thức xã hội đó.

Xét về đối tượng, các khoa học chia thành những khoa học, khoa học tự nhiên – kỹ thuật, nghiên cứu các qui luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên; và những khoa học xã hội nghiên cứu những qui uật vận động, phát triển của xã hội và bản thân con người.

Khoa học hình thành và phát triển ở một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội, của nhu cầu sản xuất xã hội và sự phát triển năng lực tư duy của con người.

- Ý thức tôn giáo.

Ý thức tôn giáo bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.

Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội.

Ý thức tôn giáo thực hiện chức năng chủ yếu là chức năng đền bù – hư ảo trong xã hội cần đến sự đền bù – hư ảo phản ánh đời sống tâm linh của con người. Chức năng đền bù – hư ảo nói lên khả năng của tôn giáo có khả năng có thể bù đắp, bổ sung một cách hư ảo về hiện thực mà trong đó con người còn bất lực trước những hiện tượng thần bí, biểu hiện sức mạnh vô hình của tự nhiên, xã hội và tư duy mà khoa học chưa có thể giải thích một cách khoa học về các hiện tượng thần bí đó.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng điều kiện tiên quyết để khắc phục tính chất tiêu cực của tôn giáo là phải xó bỏ nguồn gốc xã hội của tôn giáo, nghĩa là phải tiến hành một cuộc cách mạng xã hội không những cải tạo xã hội mà còn cải tạo bản thân con người, giải phóng ý thức của mình khỏi những quan niệm sai lầm, ảo tưởng của tôn giáo.

- Ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ.

Lịch sử mỹ học là lịch sử ra đời, hình thành và phát triển từ xã hội nguyên thủy. Xét về nội dung, đối tượng nghiên cứu của mỹ học là nghiên cứu các quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực, xét về chủ thể, khách thể và nghệ thuật:

Chủ thể thẩm mỹ, một mặt với tính cách là quá trình cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ; mặt khác là các hoạt động của chủ thể thẩm mỹ nhằm thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ tình cảm thẩm mỹ – thị hiếu thẩm mỹ – lý tưởng thẩm mỹ của cá nhân và xã hội. Chỉ có các nhu cầu về cái đẹp, tình cảm về cái đẹp – thị hiếu về cái đẹp – lý tưởng thẩm mỹ về cái đẹp là đối tượng của mỹ học, còn các nhu cầu khác trong hoạt động xã hội của con người là đối tượng nghiên cứu của các khoa học khác.

Khách thể thẩm mỹ với tính cách là đối tượng thẩm mỹ. Đó là những những hiện tượng thẩm mỹ khách quan như cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Trong đó cái đẹp giữ vị trí trung tâm. Bởi vì, cái bi, cái hài, cái cao cả sở dĩ mang yếu tố thẩm mỹ vì chúng là các hình thức tồn tại khác nhau của cái đẹp và trong mối quan hệ với cái đẹp.

Nghệ thuật với tính cách là hình thái cao nhất của quan hệ thẩm mỹ, cũng bao gồm sự hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật nhằm thoả mãn nhu cầu tình cảm – thị hiếu – lý tưởng nghệ thuật của cá nhân và xã hội. Nói đến nghệ thuật là nói đến các qui luật của tình cảm, của cái đẹp. Sự phản ánh cái xấu trong nghệ thuật cũng phải gắn với lý tưởng về cái đẹp. Do đó, cái đẹp đã làm cho nghệ thuật thể hiện được bản chất, đặc trưng và chức năng của nó và đồng thời nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của mỹ học.

IV. TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI

       1. Khái lược về con người và bản chất của con người

a. Khái niệm về con người

- Trong lịch sử triết học có rất nhiều quan niệm khác nhau về con người, bản chất của con người, cơ bản là những quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình.  

Theo quan điểm duy vật lịch sử: Con người là một thực thể tự nhiên có đặc tính xã hội hoặc con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.

+ Con người là thực thể tự nhiên (bản tính tự nhiên – mặt sinh học) xét về nguồn gốc, bản chất và vai trò của các qui luật tự nhiên đối với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển con người. Con người là sản phẩm của lịch sử tự nhiên. Đó là quá trình hình thành phương diện sinh học và khả năng thỏa mãn nững nhu cầu sinh học như ăn, mặc ở, hoạt động và tái sản sinh con người. Như vật, con người trước hết là một thực thể sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là kết cấu sinh học về thể chất và mối quan hệ của nó với tự nhiên, là những thuộc tính những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau thể hiện bản chất sinh học của cá nhân con người.

+ Con người là thực thể xã hội: Con người là sản phẩm của lịch sử phát triển xã hội và chính lao động là nhân tố giữ vai trò quyết định cho quá trình hình thành con người, ngôn ngữ, ý thức của con người. Thông quan hoạt động sản xuất vật chất, con người đã cải biến giới tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người. Đó là quá trình hình thành phương diện xã hội và khả năng thỏa mãn không chỉ những nhu cầu sinh học mà còn khả năng thỏa mãn những nhu cầu xã hội nói chung của con người. 

+ Khẳng định con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội theo nguyên tắc mặt sinh học là điều kiện, tiền đề tiên quyết làm xuất hiện con người; mặt xã hội giữ vai trò quyết định đối với sự hình thành, tồn tại, vật động và phát triển của con người thông qua các qui luật khách quan của đời sống con người...

b. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội

Xuất phát từ sự khẳng định con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội theo nguyên tắc mặt sinh học là điều kiện, tiền đề tiên quyết làm xuất hiện con người; mặt xã hội giữ vai trò quyết định đối với sự hình thành, tồn tại, vật động và phát triển của con người thông qua các qui luật khách quan của đời sống con người. Bản chất của con người: chính là ở đặc tính xã hội, ý thức, trí tuệ, tình cảm, năng động, sáng tạo; được hình thành trong môi trường, quan hệ xã hội, “ là tổng hòa của các quan hệ xã hội ”

Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau. Đó là quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ giữa người và người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả những mối quan hệ khác và mọi hoạt động liên quan đến con người...

Theo Các Mác trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Luận điểm trên của Các Mác khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong những điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa và những mối quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại,v,v... con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Điều cần lưu ý là luận điểm trên khẳng định bản chất xã hội của con người không có nghĩa phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống của con người...

c. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu:

- Xem xét con người phải đặt trong mối quan hệ cụ thể, môi trường, hoàn cảnh sống xác định và quan điểm toàn diện, xem xét tổng thể các mối quan hệ khi đánh giá một con người.

- Phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người, tạo điều kiện hoàn thiện con người phát triển tự do và toàn diện.

- Sự nghiệp giải phóng con người phải bắt nguồn từ phân tích, giải phóng các quan hệ xã hội mà con người đang sống.

       2. Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người

Theo nghĩa rộng nhất, tha hoá là quá trình xã hội mà trong đó kết quả hoạt động của con người biến thành một lực lượng độc lập thống trị lại con người và thù địch với con người. Mác tìm nguyên nhân dẫn đến sự tha hoá của con người từ “lao động bị tha hoá”, biểu hiện:

- Sản phẩm do lao động của con người trở thành cái đối lập, chi phối con người

- Lao động không còn mang bản chất sáng tạo mà trở thành lao động cưỡng bức, con người không khẳng định mà lại phủ định chính mình.

- Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sức lao động cũng không thuộc người lao động mà thuộc người khác (nhà tư bản thuê lao động

Theo C. Mác, thực chất của lao động bị tha hóa là quá trình lao động và sản phẩm của lao động từ chỗ để phục vụ con người, để phát triển con người đã bị biến thành lực lượng đối lập, nô dịch và thống trị con người. Người lao động chỉ hành động với tính cách con người khi thực hiện các chức năng sinh học như ăn, ngủ, sinh con đẻ cái,… còn khi lao động, tức là khi thực hiện chức năng cao quý của con người thì họ lại chỉ như là con vật.

Đối với phương thức và lực lượng thực hiện việc giải phóng con người, triết học Mác - Lênin khẳng định:

Giải phóng con người là xóa bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hóa để con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của mình.

Nguyên nhân nảy sinh ra tha hóa do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất gắn trực tiếp với chế độ tư bản. Vì vậy, lực lượng thực hiện nó chính là những người bị tước đoạt tư liệu sản xuất – những người vô sản.

       3. Quan điểm triết học Mác – Lênin về quan hệ cá nhân và xã hội

- Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.

- Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của một xã hội là cộng đồng tập thể gia đình, cơ quan, đơn vị... và lớn hơn là cộng đồng xã hội quốc gia, dân tộc… và rộng lớn nhất là cồng đồng nhân loại.

Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân. Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực hiện. Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật chất và tinh thần. Mặt khác, mỗi cá nhân trong xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện để thúc đẩy xã hội tiến lên. Vì vậy, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bất cứ vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp, nếu lợi ích cá nhân và xã hội là thống nhất thì chính ở đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực chung vì một tương lai tốt đẹp.

       4. Quan điểm triết học Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân và vĩ nhân, lãnh tụ trong lịch sử

       a. Vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển của lịch sử

- Khái niệm quần chúng nhân dân

Khái niệm quần chúng nhân dân cũng thay đổi và phát triển phụ thuộc những điều kiện lịch sử nhất định. Nhưng luôn được xác định được bởi 3 quan hệ xã hội sau:

+ Quần chúng nhân dân, trước hết là lực lượng lao động xã hội, những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất của xã hội. Quan hệ xã hội này là nội dung cơ bản để xác định nội dung khái niệm QCND. Theo nghĩa hẹp, trong quan hệ này khái niệm QCND là khái niệm quần chúng nhân dân lao động.

+ QCND là các bộ phận dân cư, thể hiện sự thống nhất về kinh tế, chính trị, ngôn ngữ và văn hóa trong quan hệ với quyền lực nhà nước và luôn có khuynh hướng chống lại những giai cấp thống trị bóc lột. Theo nghĩa hẹp, trong quan hệ này khái niệm QCND được hiểu là quyền lực của nhân dân, của dân tộc trong quan hệ với nhà nước.

+ QCND là các giai cấp, tầng lớp xã hội có ý nghĩa tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội. Theo nghĩa rộng, trong quan hệ này QCND là cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo…

Khái quát 3 quan hệ xã hội trên chủ nghĩa duy vật lịch sử định nghĩa quần chúng nhân dân:  Quần chúng nhân dân là những cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của các cá nhân hay các tổ chức chính trị xã hội nhất định, nhằm giải quyết các nhiệm vụ của lịch sử.

- Vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển của xã hội

Trong lịch sử triết học trước Mác, về cơ bản đều chưa phản ánh đúng về vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển của xã hội. Đó là những quan điểm có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của các cá nhân như lãnh tụ chính trị của các đảng phái, các giai cấp, dân tộc đối với sự phát triển của xã hội và ngược lại phủ nhận vai trò của quần chúng nhân dân...

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân. Hơn nữa, tự tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua các mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân để biến lý tưởng thành hiện thực trong đời sống xã hội.

Vai trò của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung cơ bản sau đây:

+ Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội.

• Quần chúng nhân dân là những người lao động, lực lượng trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội;

• Hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân là cơ sở cho sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội;

• Quần chúng nhân dân là chủ thể xã hội, quyết định đối sự phát triển xã hội.

+ Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội…

• Xuất phát từ quan niệm của Lênin cho rằng sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của QCND…

• Phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân luôn là lực lượng đông đảo trong các cuộc cách mạng xã hội;

• Phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân luôn gắn liền với giải phóng dân tộc…

+ Thứ ba, quần chúng nhân dân có vai  quan trọng trong sự hình thành và phát triển của các nền văn hóa... Bản sắc văn hóa của các dân tộc đều do quần chúng nhân dân sáng tạo dưới các hình thức như: Thần thoại, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, châm ngôn, truyện cười…

- Ý nghĩa phương pháp luận và thực tiễn

+ Phê phán quan điểm không đúng về vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển của xã hội. Đó là quan điểm của triết học duy tâm, siêu hình và tôn giáo...

+ Khẳng định quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định đối với sự phát triển của xã hội

+ Quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam. Quyền lực của nhà nước là quyền lực của nhân dân. Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân...

       b. Vĩ nhân (Lãnh tụ).

- Khái niệm vĩ nhân (lãnh tụ).

Để trở thành lãnh tụ gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:

Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại.

Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại.

Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại. Bất cứ một thời kỳ nào, một dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ, đáp ứng yêu cầu của lịch sử.

- Vai trò của vĩ nhân (Lãnh tụ).

Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu sau:

Thứ nhất, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.

Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng.

Thứ ba, tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.

       5. Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam

- Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người

- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhấn mạnh đến việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay với những đức tính sau đây:

+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.

+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội

+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực”[3].


 

 



[1]V.I. Lênin (1977), Toàn tập, t. 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 17-18.

[2]V.I.Lênin (1979), Toàn tập, t. 7, Nxb Tiện bộ, Mátxcơva, tr. 237 – 238.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII.-Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 58-59.

0 nhận xét :