1. Cái đẹp trong tự nhiên
Vấn
đề đặt ra ở chỗ tự nhiên rõ ràng đã tồn tại trước con người, vậy có cái
đẹp trong tự nhiên không? Nếu có cái đẹp trong tự nhiên thì cái đẹp đó
có tồn tại tự nó, mang tính khách quan và có trước con người?
Trước
hết, chúng ta thấy, toàn bộ giới tự nhiên dù thể hiện dưới các hình
thức các sự vật, hiện tượng, hệ thống vật chất cụ thể khác nhau, thì nó
luôn ở trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng; đồng thời nó tồn
tại khách quan độc lập với ý thức của con người. Còn sự xuất hiện con
người, xã hội cũng chỉ là kết quả trong lịch sử phát triển của giới tự
nhiên. Không thể phủ nhận yếu tố sức sống của tự nhiên tham gia vào định
chuẩn cái đẹp thẩm mỹ của con người. Đó là các yếu tố sinh học, vật lý
dưới các hình thức khác nhau về cấu trúc, hình dáng, mầu sắc, tính chất
của tự nhiên, nó tương quan với hoạt động thẩm mỹ của con người.
Tự nhiên là nơi bắt đầu của mọi cái đẹp, vẻ đẹp của mây, gió, trăng, hoa, tuyết núi sông là
nguồn cảm hứng và đồng thời là đối tượng miêu tả của nghệ thuật, cũng
như nó thể hiện tính đa dạng, phong phú, sinh động trong quan hệ thẩm mỹ
của con người.
Các nhà mỹ học mỹ học duy tâm. Mỹ
học duy tâm khách quan không phủ nhận cái đẹp trong tự nhiên, nhưng cho
rằng: cái đẹp trong tự nhiên dù thể hiện dưới hình thức nào, chúng vẫn
là cái đẹp không chủ ý, là cái phù du, là cái đẹp không có tinh thần,
thiếu lý tưởng. Ngược lại, các nhà mỹ học duy tâm chủ quan cũng bỏ quên
cái đẹp vốn có của tự nhiên và có khuynh hướng tuyệt đối hoá tình cảm cá
nhân con người con người khi phán quyết cái đẹp của tự nhiên.
Các nhà mỹ học duy vật trước trước thế kỷ XIX đã
thừa nhận cái đẹp của tự nhiên, đó cũng là các sự vật, hiện tượng xét
về các khiá cạnh vật lý, hoá học, sinh học nhưng đó là tự nhiên không
đặt trong quan hệ thực tiễn của con người. Đồng thời, khuynh hướng sùng
bái cái đẹp trong tự nhiên sẽ dẫn đến chủ nghĩa tự nhiên trong nghệ
thuật và coi nghệ thuật chỉ là sự “bắt chước” thuần túy giới tự nhiên[1].
Các nhà mỹ học hiện đại
cũng thừa nhận cái đẹp của tự nhiên. Nhưng đó là quá trình con người
“đồng hoá” hiện thực bằng hoạt động thẩm mỹ. Sự đồng hoá hiện thực bằng
thẩm mỹ, chính là sự hài hoà trong mối quan hệ giữa khách thể và chủ
thể, nó phụ thuộc không chỉ vào những thuộc tính tự nhiên của các hiện
tượng thiên nhiên, mà cả vào những nhân tố chủ quan, nên nó mang dấu ấn
chủ quan. Chính điều đó cắt nghĩa và lý giải đến một giới hạn nhất định
cho sự khác biệt trong những đánh giá thị hiếu thẩm mỹ của mỗi con
người. Giới hạn về sự chấp nhận được đánh giá thẩm mỹ khác nhau sẽ bị
phá vỡ khi người ta lầm lẫn vẻ đẹp của bản thân tự nhiên với quan hệ hài
hoà giữa tự nhiên và hoạt động thực tiễn của con người, khi người ta
đồng nhất vẻ đẹp của tự nhiên với cái lợi ích, với giá trị thực tiễn,
với ý nghĩa con người của các hiện tượng tự nhiên.
Như
vậy, cái đẹp trong tự nhiên là cái có năng lực biểu hiện sức sống tồn
tại và phát triển, là cái có khả năng gợi mở cho con người khám phá bản
chất chân chính của mình. Nó cũng là cái có thể gợi mở sự liên tưởng,
sức sáng tạo và phát triển của con người làm xuất hiện ở tâm hồn con
người những rung động thẩm mỹ, những cảm xúc mê say, tích cực, khiến cho
con người khát vọng và yêu đời và muốn cống hiến nhiều hơn cho những
mục đích và lý tưởng chân chính của mình.
Cái
đẹp trong tự nhiên tuy tồn tại khách quan, nhưng chỉ là một tiềm năng,
một sức sống và là đẹp theo đúng nghĩa chân chính của nó khi con người
“đồng hóa” giới tự nhiên bằng thẩm mỹ trong hoạt động thực tiễn của con
người.
2. Cái đẹp trong xã hội
Cái đẹp trong xã hội - cái đẹp trong hoạt động của con người thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: lao động sản xuất, đấu tranh xã hội, vui chơi, giải trí, thể thao, hội hè. Cái
đẹp trong xã hội cũng rất phong phú, nhiều hình nhiều vẻ, nó phối hợp
được cả vẻ đẹp mầu sắc, hình dáng, cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn vẻ đẹp bên
trong bắt nguồn từ quan niệm chính trị - đạo đức - truyền thống – phong
tục. Chẳng hạn cái đẹp của con người với tính cách sản phẩm của tự nhiên
nó mang tính vật chất – vẻ đẹp bên ngoài: thân thể – vóc dáng tự nhiên;
nhưng con người còn là sản phẩm của xã hội là vẻ đẹp xã hội: tinh thần –
vẻ đẹp bên trong tâm hồn bộc lộ qua sự hoàn thiện về mặt nhân cách, về
lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức xã hội.
Khác
với cái đẹp vốn có của tự nhiên, cái đẹp trong xã hội có liên quan mật
thiết đến các lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức. Bởi vì cơ sở đánh
giá cái đẹp trong tự nhiên liên quan tới tính qui luật và tính hợp lý
của các hiện tượng tự nhiên trong quan hệ thẩm mỹ của con người. Thì
ngược lại cơ sở đầu tiên đánh giá cái đẹp trong xã hội lại là lao động
sản xuất. Cái đẹp trong xã hội là cuộc đấu tranh để thực hiện lý tưởng
thẩm mỹ, để xây dựng một xã hội tốt hơn, đẹp hơn. Một xã hội đẹp là xã
hội mà ở đó chủ nghĩa nhân đạo trở thành văn hoá, văn minh và cũng là
một giá trị nhân văn sâu sắc thấm sâu đậm trong quan hệ giữa con người
và con người.
Tuy
dựa vào nền tảng của lao động sản xuất của xã hội, nhưng cái đẹp trong
xã hội lại phụ thuộc vào nhiều mối quan hệ phức tạp, do đó, khi đánh giá
cái đẹp trong xã hội, con người phải dựa vào hai hệ tiêu chí cơ bản: hệ
tiêu chí: Chân – thiện – mỹ và hệ tiêu chí: tính lịch sử, giai cấp,
nhân dân, dân tộc và tính thời đại trong sáng tạo và cảm thụ cái đẹp.
- Hệ tiêu chí: chân - thiện – mỹ đánh
giá cái đẹp trong xã hội giúp con người phát hiện ra sự thật của cuộc
sống và nhận thức đúng đắn về các mối quan hệ thực tại của tự nhiên và
xã hội, chỉ cho ta cách giải quyết các mâu thuẫn và xung đột đó một cách
có cơ sở khoa học, mang lại hiệu quả ngày cao của quá trình cải tạo
hiện thực. Thật vậy, cái chân – cái thiện – cái mỹ đánh giá cái đẹp
trong xã hội là những phương tiện tốt nhất để con người đạt được sự hài
hòa, hoàn chỉnh các phẩm chất cao qúi nhất của tâm hồn, trong đó, sự
tiếp nhận, hưởng thụ cái đẹp mang lại cho con người một một khoái cảm
tinh thần – một sự tổng hợp cảm xúc.
- Hệ tiêu chí: Tính lịch sử, giai cấp, dân tộc và thời đại. Ngoài
mối liên hệ chân – thiện – mỹ, chúng ta còn phải đặt cái đẹp trong quan
hệ với tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại. Bởi
vì trong hoạt động định hướng của con người chúng ta thấy rõ là, khởi
điểm và mục đích của hoạt động xã hội bao giờ cũng gắn liền với những
điều kiện lịch sử nhất định, nó xuất phát từ những nhiệm vụ, yêu cầu cụ
thể của mỗi một hình thái kinh tế – xã hội cũng như các thời đại nhất
định. Cho nên, quan niệm về cái đẹp cũng thay đổi và phát triển có tính
chất lịch sử và tính chất lịch sử đó thể hiện ở tính giai cấp, tính nhân
dân, dân tộc và tính thời đại.
3. Cái đẹp trong nghệ thuật
Nghệ
thuật là thế giới của cái đẹp nó thể hiện tập trung của mọi quan hệ
thẩm mỹ. Nói cách khác, trong bất kỳ hoạt động nào của con người cũng
hướng đến sự sáng tạo ra cái đẹp, vươn đến cái đẹp nhưng không ở đâu qui
luật ấy lại bộc lộ rõ nét, không ở đâu việc sáng tạo ra cái đẹp lại
chiếm một vị trí quan trọng như trong nghệ thuật. Ở đây cái đẹp trong
nghệ thuật không chỉ là sự phản ánh tính chân thật cuộc sống hiện thực,
mà còn là phản ánh bằng tài năng sáng tạo của người nghệ sỹ. Cũng chính
vì vậy, nghệ thuật không phải nơi độc quyền sáng tạo ra cái đẹp, mặc dầu
trong mọi hoạt động sáng tạo của con người đều có hiện diện của yếu tố
thẩm mỹ – yếu tố cái đẹp; nhưng nghệ thuật là hình thái cao nhất, tập
trung nhất của qui luật sáng tạo cái đẹp trong việc đáp ứng nhu cầu thẩm
mỹ và nhu cầu tinh thần nói chung của con người.
Cái
đẹp trong nghệ thuật nó đều biểu đạt qua hình tượng nghệ thuật. với
tính cách là một dạng thức phản ánh khác về chất với các hình thức phản
ánh khác của hoạt động nhận thức, - đó là sự phản ánh cô đặc tình cảm,
lý trí với cách thể hiện vừa cảm tính lại vừa cụ thể. Trong “Hiện tượng
học tinh thần”, Hêghen thật có lý, khi ông chia nhận thức của con người
ra làm ba nhóm: triết học có phương thức nhận thức bằng khái niệm;
tôn giáo nhận thức bằng cảm niệm (biểu tượng), nghệ thuật nhận thức bằng
hình tượng (chiêm ngưỡng).
Hình tượng nghệ thuật, thông thường nó được phân tích ở các cấp độ khác nhau để làm sáng tỏ ở khía cạnh phép biện chứng giữa lý tính và cảm tính, khách quan và chủ quan, điển hình và khái quát. Việc
nghiên cứu các cấp độ tồn tại của hình tượng nghệ thuật là công việc
hết sức quan trọng đối với việc làm rõ đặc trưng của nghệ thuật. Bởi vì
là cơ sở phương pháp luận để xem xét bất cứ khía cạnh nào của hình tượng
nghệ thuật, nhất là vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần con
người.
Đặc trựng cái đẹp trong nghệ thuật, trước hết thể hiện ở tính điển hình của nó. Cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật tồn tại như một chỉnh thể thống nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, trong đó cái chung đã được cá biệt hóa, cái cá biệt đã được khái quát hóa, điển hình hóa. Mỗi
hình tượng nghệ thuật là một cái riêng độc đáo, là sự không lặp lại bất
kỳ cái riêng nào khác được thể hiện bằng các thủ pháp nghệ thuật khác
nhau: hư cấu, tưởng tượng, ước lệ. Nó mang tính mở và không bao giờ kết thúc.
Đặc trưng cái đẹp trong nghệ thuật còn biểu hiện ở sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Chính vì vậy, cái đẹp của hình tượng nghệ thuật là cái đẹp hoàn chỉnh, tính gọt giũa, trau chuốt của các yếu tố hình thức mà
người nghệ sỹ phải góp nhặt, thâu tóm cái đẹp trong hiện thực để sáng
tạo nó trong tác phẩm nghệ thuật. Xét về nguồn gốc, về tính có trước và
phong phú thì cái đẹp trong tự nhiên, cái đẹp trong xã hội thông qua
hoạt động thực tiễn của con người đều được phản ánh dưới các hình thức
khác nhau trong hình tượng nghệ thuật – sáng tạo nghệ thuật. Sự hoàn
thiện và hấp dẫn của cái đẹp trong nghệ thuật đã được Hoàng Đức Lương
nhận xét khá thú vị: “Đến như văn thơ, thi nại là sắc đẹp ngoài cả
sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem,
miệng tầm thường mà nếm được”[2]. Quả thực là đúng như vậy, nhưng chúng ta nghĩ gì về những cuộc triển lãm thơ của Nguyễn Duy trong những năm gần đây? Hoặc khi trả lời nhiều cuộc phỏng vấn vế tác phẩm: “Chân dung và đối thoại”
của Trần Đăng Khoa có những ý “hư cấu”, “bôi bác” về mình, Tố Hữu cho
rằng: đó cũng là nghệ thuật, nó mang trong mình những ẩn dụ, hư cấu, vừa
“hư’ vùa “thực”, - tức là nội dung tư tưởng mà tác giả muốn trình bày.
Nhưng không phải vì thế mà ông phủ nhận những bài thơ hay của Trần Đăng
Khoa trong: “Góc sân và khoảng trời”. Trong đó có một câu thơ mà Tố Hữu cho là lời thơ của Giời[3] khi Trần Đăng Khoa nói về hình tượng của chiếc lá đa rơi trong không gian của nàng thơ:
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng…
Những
người tình – người tình trong thơ ca luôn ẩn giấu khát vọng yêu và được
yêu của con người. Ở Hàn Mạc Tử, những người tình theo Xuân Diệu, Hoàng
tử thơ ca lãng mạn Việt Nam đương thời thì “dù người yêu đôi ngày, dù
người yêu dài hạn, dù người này là có thực người khác chỉ là cái tên hư
cấu, tất cả đã góp phần làm cho Hàn Mạc Tử có những câu thơ tình hay vào
bật nhất trong thơ ca Việt”:
Nghe hơi gió ôm ngang lấy gió,
Tưởng chừng như trong gió có hương.
Của người mình nhớ mình thương.
Hoặc:
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Nếu như chúng ta xét mối liên hệ giữa nội dung và hình thức trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn, thể hiện tư tưởng triết lý Phương Đông, nhất là Phật giáo, giàu
tính nhân văn, sự hướng thiện cũng như khát vọng được sống, được yêu và
luôn tìm cách trả lời những câu hỏi của thực, của ảo trong cuộc đời,
rồi như ông còn để ngỏ cho mọi người tìm cách giải đáp tiếp cho ông
những vấn đề đó: “ Ở trọ”, “Một cõi đi về”, “Nhớ mùa thu Hà Nội”, “Diễm xưa”, “Hạ trắng”, “ Nối vòng tay lớn”, “Đoá hoa vô thường”. Và Trịnh Công Sơn đã từng nói:
“Tôi chỉ là người hát rong đi qua miền đất này để hát lên linh cảm của
mình về những giấc mơ Đời. Những giấc mơ, mà ở đó mỗi bài hát của tôi là
một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín và những nỗi
niềm tuyệt vọng, và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với
buổi chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia sẻ
những buồn vui cùng mọi người…”. Và rồi cũng nghe Trịnh Công Sơn dự cảm về một chuyến đi xa của mình qua những ca khúc: “Ở trọ”, “Cát bụi”, “Một cõi đi về”. Khi chia tay Trịnh Công Sơn về chốn xa xăm cuối trời, chúng ta vẫn nghe đâu đó lời ca:
Con chim ở đậu cành tre/ Con cá ở trọ trong khe nước ngầm/ Tôi nay ở trọ trần gian/ Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời…
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
cái đẹp trong nghệ thuật là quan hệ giữa lý tưởng thẩm mỹ nhất định
nhằm đánh giá các hiện tượng thẩm mỹ của cuộc sống được diễn tả hình
tượng phù hợp với bản chất của lý tưởng thẩm mỹ đó. Biểu hiện cái đẹp
trong nghệ thuật có liên quan đến giữa hư cấu và hiện thực, lấy cái hư
để nói cái thực, lấy cái thực để nói cái thực. Giá trị nghệ thuật của
cái đẹp là giá trị tư tưởng nằm ở cả nội dung và hình thức. Nghệ thuật
đẹp luôn có một nội phong phú và hình thức hấp dẫn. Chất lượng nghệ
thuật không thể chia cắt giữa nội dung và hình thức.
Như vậy, cái
đẹp trong nghệ thuật trước hết là cái đẹp của hiện thực cuộc sống mà nó
phản ánh, là vẻ đẹp của tự nhiên, của xã hội của con người đã được
những người nghệ sỹ sáng tạo và biểu đạt bằng các cấp độ khác nhau của
hình tượng nghệ thuật bằng tính điển hình hoá, trong mối quan hệ giữa
cái chung – cái riêng, giữa nội dung – hình thức. Cái đẹp là một giá
trị, nhưng cái đẹp trong nghệ thuật là một giá trị tổng hợp của giá trị
thẩm mỹ, triết học, chính trị, đạo đức, văn hoá. Những tác phẩm nghệ
thuật của nhân loại bao giờ cũng là các tác phẩm mà ở đó bao chứa những
khát vọng vươn tới cái đẹp, cái cao thượng ở sự hoàn mỹ, ở một hình thức
hấp dẫn đích thực của nó trong các ngôn ngữ đặc thù của nghệ thuật.
[1]
Một hình thức của chủ nghĩa duy vật trong mỹ học của được phát triển
mạnh mẽ ở thời kỳ phục hưng và sau đó được phát triển bởi Điđrô,
Letxing.
[2] Từ trong di sản… Nxb Tác Phẩm Mới, Hà Nội 1981, tr. 23.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét