Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Thứ Ba, 19 tháng 1, 2010

Cái bi trong xã hội và trong nghệ thuật

1. Cái bi trong xã hội
Trước hết, cái bi trong xã hội phản ánh những mâu thuẫn, sự xung đột tạm thời nhưng chưa giải quyết được và cũng là những tình huống của cái đẹp, cái anh hùng, cái cao thượng bị tiêu vong, còn gọi là bi kịch của cuộc sống. Chẳng hạn, cái chết của Nguyễn Trãi hay còn gọi là “Vụ án vườn Lệ chi” đã tạo nên sự đồng cảm, đồng khổ sâu sắc và to lớn của dân tộc Việt Nam. Đây là một bi kịch của lịch sử làm nhức nhối tâm can của hàng triệu triệu con người Việt Nam. Vua Lê Thái Tôn sau khi duyệt binh ở Chí Linh (Hải Dương), ghé thăm Nguyễn Trãi đang trí sỹ ở Côn Sơn – thấy người tỳ thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ xinh đẹp có tài, bèn phong cho chức Lễ nghi học sỹ và bắt theo hầu. Nhưng khi đến vườn Lệ Chi thuộc huyện Gia Bình thì vua đột ngột mất. Đó vào tháng 7 năm nhân tuất 1442. Triều đình nhà Lê đã qui tội giết vua cho Nguyễn Thị Lộ, vợ của Nguyễn Trãi, và tru di ba họ của Nguyễn Trãi. Trước thảm kịch to lớn đó của lịch sử Việt Nam và chính ngay cả triều đình phong kiến nhà Lê cũng không phải hoàn toàn bất công. Chỉ 22 năm sau vua Lê Thánh Tông đã giải tỏa vụ bi kịch khốc liệt đó.
Do những điều kiện lịch sử nhất định nào đó, mà cái hoàn toàn mới bị thất bại, do chưa gặp được những điều kiện lịch sử thật chín muồi để chiến thắng, Chẳng hạn như Công xã Pari, của Nam kỳ khởi nghĩa.
Thứ hai, cái bi kịch của chính cái cũ chưa hết vai trò lịch sử. Nhân vật Đôngkisốt có phần bi có phần hài. Lòng tốt của tầng lớp hiệp sỹ đã hết vai trò lịch sử mà họ chưa chịu chấm dứt, đã nhận được sự đồng cảm, đồng khổ của lịch sử và cũng nhận cả được tiếng cười phê phán. Bi kịch này là bi kịch của cái cũ nhưng không hoàn toàn cũ, chưa tiếp cận được cái mới, nên không đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ của lịch sử. C.Mác đã đã nói về sự tiêu vong của tính bi kịch trong chế độ phong kiến ở Anh và Pháp bởi vì nó tiêu vong khi vẫn đang còn sinh lực. C.Mác viết: “Lịch sử của chế độ cũ là bi kịch, chứng nào nó còn là cái quyền lực của thế giới tồn tại bao nhiêu đời nay, còn trái lại tự do là cái tư tưởng ám ảnh một số người cá biệt, nói khác đi chừng nào chính bản thân chế độ cũ tin và cần phải tin vào tính chất hợp lý của nó”[1].
Thứ ba, bi kịch của sự lầm lẫn thường được nêu ra như những bài học xương máu của đường đời, nó nhắc nhở con người một bài học cảnh giác. Chẳng hạn như An Dương Vương mất loa thành phải giết con gái và tự tử vì mất cảnh giác. Ôtenlô từ một nô lệ da đen, bằng cả cuộc đời dũng cảm và thông minh của mình, trờ thành võ tướng và lay động được tình yêu của một thiếu nữ da trắng, nhưng rồi đã giết người yêu của mình không phải vì quá ghen mà vì quá tin, thành ra bị kẻ địch lừa dối. Dạng thức này chúng ta cũng thấy ở Việt Nam trong truyền thuyết về Mỵ Châu, Trọng Thủy:
Tôi kể ngày xưa truyện Mỵ Châu
Trái tim lầm tưởng để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu
(Tố Hữu)
2. Cái bi trong nghệ thuật
Cái bi trong nghệ thuật thể hiện ở nghệ thuật bi kịch trong lịch sử phát triển của mỹ học, của nghệ thuật, nhưng xét cho cùng nó cũng phản ánh cái bi kịch của cuộc sống, nhưng tùy theo những điều kiện lịch sử nhất định mà có những nội dung và hình tượng thẩm mỹ về bi kịch cũng khác nhau.
Các nhà nghệ thuật cổ đại như Hômerơ với thiên anh hùng ca Iliát và Ôđixê hoặc Êsilơ với Prômêtê bị xiềng đều có khát vọng là con người muốn nhận thức, muốn lý giải nhưng xung đột gay gắt của cuộc sống bằng thẩm mỹ. Các anh hùng của nghệ thuật bi kịch thời kỳ này đều mang đậm tính bi – hùng kịch thường bị thất bại thảm thương, bị đọa đầy đau khổ, nhưng nó thể hiện tính bất tử của con người chân chính biết hy sinh vị lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy mà nghệ thuật bi kịch cổ đại đã biết buộc cái chết, hy sinh để phục vụ cuộc sống.
Bi kịch thời kỳ trung cổ mang mầu sắc tôn giáo, phục vụ cho hệ thống giáo lý nhà thời công giáo gắn với truyền thuyết phạm tội của Ông bà Ađam và Êva. Cho nên, bi kịch phương Tây thời trung cổ không mỹ hoá vẻ đẹp con người, mà chỉ mỹ hoá thảm cảnh của con người, nó ca ngợi sự đau thương của con người bằng triết lý mỹ học giả dối, ích kỷ phục vụ tôn giáo.
Bi kịch thời kỳ phục hưng là một bước tiến quan trọng, vì nó đặt ra một vấn đề nhân sinh một cách trực tiếp. Mâu thuẫn bi kịch thời kỳ này phản ánh mâu thuẫn của bước quá độ từ xã hội phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Nó xây dựng được những mâu thuẫn điển hình giữa một bên với tính cách là những người khổng lồ muốn xoá bỏ cái cũ, muốn giải phóng con người nhất là cá nhân con người ra khỏi xiềng xích của thần quyền tôn giáo với một bên muốn giữa lại những gì của cái cũ. Bi kịch thời kỳ này gắn liền tên tuổi của Sếchpia với các tác phẩm nổi tiếng: Hămlét, Ôtenlô, Rômêô và Giuyliét, Ma bét và Vua Lia.
Bi kịch thời kỳ này còn phản ánh những mâu thuẫn sâu sắc giữ lý tưởng nhân văn, hướng về tự do muốn giải phóng con người với thực tại là con người đang rơi vào sự trói buộc không chỉ của xiềng xích cũ, mà còn xiềng xích mới đang hình thành với những khát vọng, ham muốn tình dục tiền bạc của chủ nghĩa cá nhân mang tính phổ biến.
Bi kịch của thời kỳ khai sáng đã hướng vào những vấn đề cơ bản của cuộc sống nhằm giải quyết những mâu thuẫn, xung đột của xã hội. Điểm nổi bật nhất của tính cách các nhân vật trong bi kịch thời kỳ này, là sự nồng nhiệt của những khát vọng, sự đam mê, căm giận, kiêu hãnh, đau đớn, hy vọng, tuyệt vọng của tình yêu của tuổi trẻ. Chẳng hạn như trong vở bi kịch: “Âm mưu và tình yêu” của Sinle là một ví dụ.
Bi kịch của phương Tây hiện đại dựa trên triết lý bi đát (chủ yếu là triết học – mỹ học hiện sinh), để hình thành quan niệm về sự thỏa hiệp đau thương không tránh khỏi của con người với thực tại nghiệt ngã và bạo tàn. Chính vì thế nghệ thuật phương Tây hiện đại dựng lên những con người bị tha hoá như: con người vỡ mộng, con người nhỏ bé. Chẳng hạn như tác phẩm “Buồn nôn” của J. Pônsắc trong mỹ học hiện sinh.
Bi kịch hiện thực xã hội chủ nghĩa lại chú trọng mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh và tính trong đại bên trong của nhân vật bi kịch. Ý thức đón nhận sự hy sinh và tính lạc quan tin vào chiến thắng vì tư tưởng giải phóng con người và giải phóng xã hội để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn.



[1] C. Mác và Ph. Ăngghen – V.I. Lênin: Về văn học nghệ thuật, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1977, tr. 244.

1 nhận xét :

TRUNG TÂM ỨNG DỤNG KHOA HỌC TÂM LÝ - GIÁO DỤC HOÀNG MINH nói...

doi voi toi baqi nay cung kha la day du,nhung nhung vi du dua ra thi can phai phan tich ro rang hon