Chào mừng bạn đến với Weblog daoduythanh!

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2010

Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân, do dân, vì dân

Quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh đã phản ánh nội dung căn bản nhất về khái niệm dân chủ - Demoskratos - quyền lực thuộc về nhân dân và cụ thể hơn là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo đó, trong khái niệm dân chủ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề nhà nước, để khẳng định nội dung chính trị của dân chủ. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho thấy rõ sự thể hiện rất cụ thể nội dung chính trị khi xem dân chủ là một hình thức nhà nước, một thiết chế xã hội và quyền lực thuộc về nhân dân.

Nghiên cứu tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh về nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là để làm rõ hơn tư tưởng về dân chủ của Người về phương diện chính trị. Như chúng ta đã biết, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền nhà nước, kể cả trong cách mạng vô sản và việc xây dựng nhà nước kiểu mới – nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, vấn đề cốt lõi phản ánh bản chất của chính quyền nhà nước đó là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai?

Các nhà nghiên cứu về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, đều có quan điểm chung cho rằng tư tưởng này của Người là sự khác biệt mang tính bản chất giữa nhà nước của nhân dân – nhà nước xã hội chủ nghĩa với các nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử, kể cả nhà nước của giai cấp tư sản – nền dân chủ tư sản.

- Nhà nước của dân và thế nào là nhà nước của dân?

Đó là nhà nước mà nhân dân là người chủ, người làm chủ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính chất “của dân” của nhà nước biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, Chính phủ do nhân dân bầu ra, dưới hình thức phổ thông đầu phiếu, dân chủ trực tiếp. Nhà nước được lập ra bằng con đường bầu cử, nhân viên Nhà nước chỉ là người thực thi, thừa hành quyền hạn thông qua sự uỷ thác của nhân dân.

Thật vậy, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên tháng giêng năm 1946 là một minh chứng lịch sử có tính chất điển hình về các chế định bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân mà Người đặt niềm tin. Người khẳng định: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà.

Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó.

Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ đoàn kết”[1].

Hồ Chí Minh luôn diễn đạt thật ngắn gọn, nhưng thật súc tích, đầy đủ quan niệm của mình về chế độ bầu cử chính phủ – nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người coi bầu cử là một hình thức đặc biệt quan trọng để nhân dân lựa chọn những người thay mặt mình thực thi quyền lực, gánh vác việc nước. Đây là một chế độ bầu cử thật sự dân chủ, tự do gồm hai quyền lớn:

1) Đối với mọi người, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu;

2) Hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử.

Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời (3-9-1945), Hồ Chí Minh đã đề nghị phải tiến hành càng sớm một cuộc tổng tuyển cử. Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội, toàn bộ cử tri Việt Nam từ 18 tuổi trở lên được đi bỏ phiếu, tự do lựa chọn những đại biểu của mình.

Tư tưởng về nhà nước dân chủ của Hồ Chí Minh, được thể hiện trong tên gọi và trong các điều của Hiến pháp: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1); “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý …” (Điều 32).

Trong lời tuyên bố sau khi thành lập Chính phủ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính phủ mới phải tỏ rõ cái tinh thần đại đoàn kết, không phân đảng phái … Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới.

Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia”[2].

Thứ hai, nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước. Quyền kiểm soát, giám sát và bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, nếu những người được nhân dân bầu ra không hoàn thành nhiệm vụ mà nhân dân giao phó, không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Theo ý ngĩa đó, “Nhà nước của dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là quyền của nhân dân trong việc thay đổi, bãi miễn Chính phủ và từng nhân viên Nhà nước khi họ làm hại cho dân và không còn xứng đáng. Vì, họ chỉ là người thừa hành, người phụ trách, người gánh vác công việc, quyền hạn được nhân dân giao phó ở các cương vị khác nhau. Về vấn đề này, Người viết: “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tuỵ của nhân dân”[3]. Và Người cũng khẳng định: “Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa”[4].

“Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”[5].

Trong Nhà nước kiểu mới, quyền và vị trí của nhân dân là cao nhất được đảm bảo trong thực tế và Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Người nhấn mạnh: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”[6] còn nhân viên, cơ quan Nhà nước chỉ là người được giao, được uỷ thác và là người thừa hành, gánh vác, phải có phạm vi, khuôn khổ được giao, phải có tinh thần phụ trách trước nhân dân và họ đều là những người được dân cử ra. Người viết: “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra”.

Có thể nói rằng, những quan điểm dân chủ của Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng Nhà nước kiểu mới ở nước ta. Chính vì vậy, trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992, dù ở các thời điểm với những yêu cầu nhiệm vụ cách mạng cụ thể khác nhau, nhưng đều thể hiện tinh thần đó – tinh thần của một nhà nước dân chủ. Chẳng hạn, Hiến pháp 1992 ghi rõ: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” (Điều 8).

Thứ ba, trong nhà nước “của dân”, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là quyền làm bất cứ việc gì pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nói rộng hơn, là xem xét mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân phải công bằng. Còn, nói cụ thể hơn giữa cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà nước với công dân là mối quan hệ đa dạng và không đơn tuyến. Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên lưu ý và nhắc nhở các cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà nước không được làm bất kỳ điều gì gây khó dễ, thiệt hại cho dân để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của nhân dân.

- Thế nào là nhà nước do dân?

Đó là nhà nước kiểu mới mà nhân dân là lực lượng xây dựng, giữ gìn, hoàn thiện nhà nước; là lực lượng quyết định sự mạnh, yếu của nhà nước.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, kể từ khi còn bôn ba ở nước ngoài để tìm đường cứu nước, giải phóng đồng bào đến khi trở thành người đứng đầu Nhà nước, lãnh đạo nhân dân, thực hành dân chủ là vấn đề dân làm chủ, Hồ Chí Minh luôn có một lòng tin sâu xa, tuyệt đối vào nhân dân. Vì Người luôn coi nhân dân là một lực lượng hùng hậu, là lực lượng quyết định đối với sự phát triển của lịch sử. Người viết: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết”. “Lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng”[7]. Người còn nhấn mạnh rằng: “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”; “… không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong…”[8]. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh thừa nhận lực lượng của dân và sức dân là vô địch và Người đã quan tâm giải quyết là mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền nhân dân, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy, nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”[9]. Đây là một quan điểm hết sức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước do dân và tư tưởng đó của Người được cụ thể hoá như:

- Do dân lựa chọn, bầu ra đại biểu của mình;

- Do dân ủng hộ, giúp đỡ (lực lượng thực hiện các chủ trương, các kế hoạch nhà nước đề ra);

- Do dân phê bình, xây dựng (đóng góp của cải, tinh thần, nguồn trí tuệ của nhà nước là dân).

- Do dân đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động (sản xuất ra của cải vật chất, cung cấp tiền của cho nhà nước hoạt động);

Đối với Hồ Chí Minh, khi ở vị trí người đứng đầu Đảng, Nhà nước, vấn đề Nhà nước do dân đã trở thành chủ trương, chính sách, đối sách trong hoạt động chỉ đạo thực tiễn hàng ngày. Người viết:

“Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.

Chính phủ ta đã hứa với dân, sẽ gắng sức làm cho dân ai nấy đều có phần hạnh phúc”[10]. Người nhấn mạnh:

“Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh”.

Một nhà nước biết lắng nghe và học hỏi dân, biết bồi dưỡng và nâng cao sức dân và phát huy được sức dân, thì sẽ thấy dân không chỉ nói lên điều mình mong muốn, mà còn làm sáng tỏ trí tuệ của mình trong việc giải quyết các vấn đề quốc kế, dân sinh. Do vậy, Nhà nước muốn làm bất cứ việc gì đều phải dựa vào sức dân thông qua việc huy động nhân tài, vật lực của dân và không ai có thể làm thay quần chúng nhân dân, dù đó là Đảng hay Nhà nước.

- Thế nào là nhà nước vì dân?

Hồ Chí Minh quan niệm nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính – chí công vô tư. Và Người cũng cho rằng, điều kiện tiên quyết: nhà nước của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế. Vậy, Nhà nước vì dân được hiểu như thế nào và bao gồm những nội dung cơ bản nào?

Khi nghiên cứu về vấn đề này, các nhà nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận và giải quyết khác nhau, nhưng về cơ bản đều có khuynh hướng chung là bàn đến những yêu cầu, nhiệm vụ về hoàn thiện bộ máy nhà nước ở các phương diện khác nhau để đảm bảo lợi ích của nhân dân và mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Về cơ bản có những nội dung:

Thứ nhất, yêu cầu kiện toàn thiết chế tổ chức, là phải làm như thế nào có một bộ máy nhà nước biết lo cho dân, trước hết là những lợi ích thiết thân hàng ngày, làm cho có dân có mặc, có chỗ ở, được học hành chứ không phải bộ máy áp bức dân; bộ máy Nhà nước ấy, lấy việc đưa lại quyền lợi ngày càng cao cho nhân dân làm mục tiêu hoạt động của mình. Nhà nước đó, “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”[11]. Theo nghĩa đó, nói “phục vụ nhân dân”, có nghĩa là công việc Chính phủ, nhân viên Nhà nước đảm trách là mang lại lợi ích cho nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.

Thứ hai, về đội ngũ cán bộ nhà nước, đó là bộ máy mà đội ngũ cán bộ nhà nước không phải là “quan cách mạng”, đè đầu cuỡi cổ dân, thu vén lợi ích riêng mà là làm đày tớ cho nhân dân, công bộc của dân. Không phải ngẫu nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người phê phán sớm nhất các “ông quan cách mạng”. Người thường nhắc nhở: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”[12].

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung đạo đức cách mạng mà suốt đời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp, bồi dưỡng cho từng cán bộ, viên chức Nhà nước, đảng viên của Đảng cầm quyền. Người nói: “Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các uỷ ban làng hiện đông lắm, phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ đã hết sức làm gương và nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ – đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết”[13]. Theo Người, làm được như vậy mới “… xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” và bản thân Người là một mẫu mực sáng ngời về một phẩm chất đạo đức tuyệt vời của một nhà lãnh đạo tận tụy suốt đời phục vụ nhân dân.

Những nguyên tắc của một nhà nước vì dân thể hiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Hồ Chí Minh thể hiện ngay cả với chức vụ Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh cũng có quan niệm rất rõ ràng là do nhân dân uỷ thác. Vì vậy, Người khẳng định rằng: gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui. Người đã nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân.

Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó.

Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó”[14]. Đó là một vị Chủ tịch hoàn toàn vì dân.



[1] Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.133.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 430.

[3] Sđd, t.7, tr.261-362..

[4] Theo Nguyễn Khắc Mai, Dân chủ – di sản văn hoá Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội, 1997, tr.41.

[5] Sđd, t.9, tr. 591.

[6] Sđd, t.5, tr.698..

[7] Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.20.

[8] Hồ Chí Minh, Sđd, t.6, tr.292.

[9] Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.56.

[10] Sđd, t.4, tr.56.

[11] Sđd, t.4,tr. 56-57,56.

[12] Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.21.

[13] Lịch sử quốc hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tr.98.

[14] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.4, tr. 240.

0 nhận xét :