1. Hình tượng nghệ thuật
a. Hình tượng nghệ thuật là gì?
Nếu
không chú ý đến những đặc trưng của phương pháp khái quát riêng của
nghệ thuật, một trong những hình thái của ý thức xã hội, thì không thể
hiểu được đặc điểm của nghệ thuật, và sự tác động đặc thù của nghệ thuật
đối với cuộc sống xã hội của con người. Bởi vì, nghệ thuật khác với các
hình thái của ý thức xã hội khác ở đặc trưng cảm tính – cụ thể, đặc
trưng tình cảm thể hiện ở phạm trù hình tượng.
Phạm
trù hình tượng là một phạm trù mang tính khái quát phản ánh tính hệ
thống của các khái niệm, phạm trù qui luật về đặc trưng thẩm mỹ của nghệ
thuật. Vì tất cả những lý giải về nghệ thuật đều xuất phát từ vấn đề
hình tượng.
Có
thể nói tư duy nghệ thuật là tư duy hình tượng, và cũng có thể định
nghĩa vắn tắt nghệ thuật là một hệ thống những hình tượng. Mọi định
nghĩa hình tượng nghệ thuật hầu như không quán triệt hết nội dung và ý
nghĩa của phạm trù này; nhưng người ta có thể hiểu hình tượng nghệ thuật
bởi những dấu hiệu đặc trưng cơ bản của nó:
-
Hình tượng là hình thức đặc thù của tư duy nghệ thuật, là sự phản ánh
hiện thực trong tính toàn vẹn, sinh động, cảm tính, cụ thể theo qui luật
của cái đẹp.
-
Hình tượng là cơ cấu hài hoà của những yếu tố chủ quan và khách quan,
cảm tính – lý tính, cụ thể – khái quát, cá biệt – phổ biến; nhưng được
trình bày bằng con đường thông qua cái khách quan, cái cảm tính, cụ thể,
cá biệt để phát hiện cái chủ quan, cái lý tính, cái khái quát, cái phổ
biến.
-
Hình tượng là một cơ cấu hài hòa tinh thần – vật chất, trong đó nội
dung của hiện thực được trình bày theo những thủ pháp và phương tiện
trực quan, gợi cảm, ẩn dụ, đa nghĩa của quá trình hư cấu nghệ thuật,
nhằm được sự miêu tả và biểu hiện.
Trong
tất cả các yếu tố tạo thành hình tượng nghệ thuật nói trên, thì yếu tố
cảm xúc – cá biệt mang tính cách cá nhân của chủ thể sáng tạo là quan
trọng nhất. Có thể coi như đó là cái phôi, cái tế bào đầu tiên để tạo
nên hình tượng và hình tượng là cơ sở để hình thành tác phẩm nghệ thuật.
Hình
tượng nghệ thuật là một phương tiện đặc thù của nghệ thuật để phản ánh
hiện thực dưới một hình thức cảm tính – lý tính, cụ thể – khái quát, cá
biệt – phổ biến để con người cảm thụ, đánh giá, sáng tạo theo qui luật
của cái đẹp.
b. Các cấp độ của hình tượng nghệ thuật
Hình
tượng nghệ thuật tồn tại như một chỉnh thể thống nhất biện chứng giữa
cái chung và cái riêng, trong đó cái chung đã được cá biệt hóa, cái cá
biệt đã được khái quát hóa. Mỗi hình tượng nghệ thuật là một cái riêng
độc đáo, là sự không lặp lại bất kỳ cái riêng nào khác được thể hiện
bằng các thủ pháp nghệ thuật khác nhau: hư cấu, tưởng tượng, ước lệ…
Các cấp độ của hình tượng nghệ thuật, thông thường nó được phân tích, làm sáng tỏ ở khía cạnh phép biện chứng giữa lý tính và cảm tính, khách quan và chủ quan, điển hình và khái quát. Việc
nghiên cứu các cấp độ tồn tại của hình tượng nghệ thuật là công việc
hết sức quan trọng đối với việc làm rõ đặc trưng của nghệ thuật. Bởi vì
là cơ sở phương pháp luận để xem xét bất cứ khía cạnh nào của hình tượng
nghệ thuật, nhất là vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần con
người.
- Cấp độ tư tưởng
của hình tượng nghệ thuật giúp chúng ta nhận thức được quan niệm về
nghệ thuật của các tư tưởng và trào lưu mỹ học khác nhau trong lịch sử.
Nhờ vậy, nghệ thuật ẩn dấu và bộc lộ trong mình những ý nghĩa triết – mỹ
sâu xa của hình tượng, cái mà hình tượng – nghệ thuật “vượt” ra khỏi
giới hạn tâm lý của chủ thể dưới góc độ cá nhân, khi quan niệm nghệ
thuật được nhận thức bằng toàn bộ sự phát triển của văn hóa mang tính
toàn nhân loại.
- Cấp độ tâm lý
của hình tượng nghệ thuật là cấp độ tình cảm và cảm xúc nghệ thuật. Các
tình cảm và cảm xúc tâm lý chứa đựng trong hình tượng nghệ thuật thể
hiện là thế mạnh riêng của sự phản ánh cuộc sống hiện thực. Bởi vì,
không có cảm xúc thì sẽ không có hình tượng trong bất cứ loại hình nghệ
thuật nào.
- Cấp độ vật chất
của hình tượng nghệ thuật là cấp độ mà thiếu nó cũng không thể có sự
tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Đó là những chất liệu vật chất được
sử dụng trong các các loại hình loại thể của nghệ thuật cũng như ngôn
ngữ, âm thanh, mầu sắc và sự kết hợp chúng để vật chất hóa hình tượng
trong nghệ thuật.
Sự
phân chia các cấp độ của hình tượng nghệ thuật chỉ là ước lệ. Vì thực
ra hình tượng nghệ thuật là một chỉnh thể phản ánh thế giới hết sức mền
dẻo, uyển chuyển, người cảm thụ có thể cảm nhận được độ tinh tế, nông
sâu của nó là tùy thuộc vào trình độ thẩm mỹ của mỗi con người. Chỉ có
điều, các cấp độ đó của hình tượng nghệ thuật có ý nghĩa rất lớn trong
việc đi sâu vào các cung bậc tình cảm – lý trí, chung – riêng trong đời
sống tinh thần con người.
2. Nội dung và hình thức của nghệ thuật
Tác
phẩm nghệ thuật là khâu quan trọng nhất của nghệ thuật, là đối tượng
cảm thụ đặc biệt của cảm thụ thẩm mỹ. Tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm
sáng tạo của có mục đích của con người và nền văn hoá chứ không phải là
đối tượng của tự nhiên. Có thể coi tác phẩm nghệ thuật là một thế giới
đặc thù trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật.
Tác
phẩm nghệ thuật có trình độ hoàn thiện và biểu cảm nhất định, có nội
dung phù hợp với hình thức, có khả năng tác động trực tiếp bằng hình
tượng mang tính toàn vẹn – cảm tính cụ thể làm rung động cảm xúc của
người xem, người đọc, người nghe khi cảm thụ nó.
a. Nội dung của tác phẩm nghệ thuật
Nội
dung của tác phẩm nghệ thuật do đối tượng của tác phẩm nghệ thuật qui
định. Đó chính là quan hệ thẩm mỹ của con người với thế giới hiện thực
thông qua tư tưởng và chủ đề của tác phẩm nghệ thuật trong quá trình
sáng tạo của người nghệ sỹ.
Nội
dung của tác phẩm nghệ thuật bao gồm hai yếu tố khách quan và chủ quan.
Yếu tố khách quan là các thuộc tính thẩm mỹ của cái đẹp, cái bi, cái
hài, cao cả trong cuộc sống được nghệ sỹ phản ánh vào tác phẩm theo chủ
đề nhất định. Nói một cách khác, đây chính là đối tượng của nghệ thuật.
Còn yếu tố chủ quan là ý tưởng sáng tạo của người nghệ sỹ nói lên các
xem xét, đánh giá và giải quyết chủ đề theo ý đồ chủ quan của nghệ sỹ.
Vấn
đề tình yêu là vấn đề của bản thân cuộc sống, nhưng đồng thời nó cũng
là chủ đề (đề tài) tình yêu mà người nghệ sỹ có thể lựa chọn đưa vào tác
phẩm với tính cách là đối tượng phản ánh của nghệ thuật. Song quan niệm
về tình yêu và cách đánh giá, giải quyết vấn đề tình yêu lại là ý đồ
chủ quan của người nghệ sỹ. Chẳng hạn, Xuân Diệu – Hoàng tử thơ lãng mạn trong thi ca Việt Nam hiện đại đã viết:
Nào là tình yêu tới sẽ ra sao?
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm lòng ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu …
Nào là yêu đến thành kẻ si tình:
Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì.
Nào là nỗi đau khổ bạc bẽo trên đường tình:
Yêu là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ… chẳng biết.
Như vậy, những yếu tố cấu thành nội dung của tác phẩm nghệ thuật là tư tưởng của tác phẩm và chủ đề của tác phẩm nghệ thuật.
Tư tưởng của tác phẩm,
trước hết là tư tuởng thẩm mỹ của nghệ sỹ được thể hiện thông qua tác
phẩm bằng các hình tượng nghệ thuật nhất định và cũng qua đó công chúng
nghệ thuật có thể cảm thụ, đánh giá được ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.
Lẽ tất nhiên quan niệm nghệ thuật, tư tưởng của nghệ thuật gắn bó sâu
sắc với các quan niệm và tư tưởng xã hội, chính trị, đạo đức, tôn giáo.
Chẳng hạn, tư tưởng của Truyện Kiều là sự phản ánh mang tính chất
khái quát thân phận của người phụ nữ tài sắc trong xã hội phong kiến
bằng hình tượng cảm tính cụ thể, độc đáo qua nhân vật Thúy Kiều; là thái
độ phê phán và lòng căm ghét, khinh thị bọn quan lại buôn người, dâm ô,
tráo trở; là tình cảm khoan dung, nhân đạo đã mang lại cho người đọc
những rung động cảm xúc, những ấn tượng, những suy nghĩ, những thương
cảm về thân phận của nàng Kiều.
Chủ đề của tác phẩm
phải gắn liền với tư tưởng của tác phẩm thông qua sự lựa chọn của người
nghệ sỹ. Trong đó tư tưởng của tác phẩm được thể hiện thông qua nhận
thức, đánh giá, sáng tạo của nghệ sỹ trong cánh đặt vấn đề giải quyết
vấn đề do chủ đề đặt ra và ngược lại chủ đề làm cho tư tưởng thêm sâu
sắc, tư tưởng phát triển chủ đề.
Tư tưởng và chủ đề
là hai yếu tố của nội dung nghệ thuật trong quá trình sáng tạo của nghệ
sỹ. Tư tưởng không thể bộc lộ ngoài chủ đề và chủ đề không thể thể hiện
nếu không có tư tưởng. Chẳng hạn, tư tưởng của Truyện Kiều là phản ánh
thân phận người phụ nữ tài sắc trong xã hội phong kiến thông qua chủ đề
thân phận Thúy Kiều. Nhưng trong tác phẩm nghệ thuật không chỉ có một
chủ đề, mà có chủ đề chính hoặc thêm nhiều chủ đề phụ. Cũng vì vậy mà
trong một tác phẩm nó có thể có rất nhiều chủ đề chính. Chẳng hạn, chủ
đề chiến tranh và hòa bình của L.Tônxtôi.
b. Hình thức của tác phẩm nghệ thuật
Hình thức
là cách thể hiện nội dung của tác phẩm nghệ thuật. Nội dung và hình
thức của một tác phẩm nghệ thuật là mặt thống nhất qui định lẫn nhau.
Hình thức là tổ chức, là cơ cấu bên trong của nội dung tác phẩm. Cho
nên, hình thức là cách thể hiện nội dung và cách thức thể hiện đó bao
gồm hai đặc điểm cơ bản. Một là nội dung của tác phẩm thể hiện bằng gì;
hai là nó được thể hiện như thế nào?
Thứ nhất, để vật chất hoá và khách thể hoá nội dung của tác phẩm nghệ thuât, cần phải sử dụng những phương tiện vật chất kỹ thuật, đó là phương tiện tạo hình – biểu hiện
mà nghệ sỹ dùng để thực hiện ý đồ sáng tác của mình. Để xây dựng hình
thức cho một tác phẩm nghệ thuật thì nghệ sỹ có thể chỉ sử dụng một vài
phương tiện vật chất – kỹ thuật phù hợp với những loại hình nghệ thuật
nhất định và nó chỉ thành yếu tố của hình thức tác phẩm khi chúng được
sắp xếp, tổ chức thành kết cấu, thành những nội dung nhất định trong tác
phẩm nghệ thuật.
Mỗi
một loại hình của nghệ thuật đều có một hệ thống các phương tiện tạo
hình – biểu hiện riêng như là ngôn ngữ đặc trưng của mình. Ví dụ, ngôn ngữ đặc trưng của Am nhạc và múa có chung yếu tố ngôn ngữ là nhịp điệu. Kết cấu của nhịp điệu của âm nhạc là giai điệu, múa là động tác và nó đều mang tính ước lệ, không mô phỏng theo âm thanh hay động tác có thật trong hiện thực. Ngôn ngữ đặc trưng của sân khấu là hành động
(hành động hình thể, hành động tâm lý và hành động ngôn ngữ), thông qua
diễn xuất của diễn viên. Hành động sân khấu là hành động kịch, hành
động xung đột, nhằm biểu hiện tư tưởng của kịch. Ngoài ra nghệ thuật sân
khấu còn có các phương tiện vật chất – kỹ thuật khác như âm nhạc, múa,
trang trí, đạo cụ hỗ trợ cho diễn xuất của các diễn viên.
Thứ hai,
ngoài những yếu tố vật chất kỹ thuật, ngôn ngữ, chất liệu để tạo hình –
biểu hiện tác phẩm còn có sự liên kết chúng lại để tạo thành bố cục của tác phẩm phản
ánh nội dung của nó. Hình thức của tác phẩm không chỉ là tạo dáng bên
ngoài, mà còn là cơ cấu bên trong của nội dung. Chính vì vậy, yếu tố
quan trọng và phổ biến của hình thức tác phẩm là bố cục, tức là cấu trúc
bên trong của tác phẩm để thông qua đó bộc lộ nội dung như sự phân bố,
sắp xếp các bộ phận của tạo hình – biểu hiện theo một hệ thống nhất
định.
Xây
dựng bố cục, tức là tìm thủ pháp và giai pháp thích hợp với tư tưởng
nhằm thể hiện nội dung của tác phẩm một cách tốt nhất có hiệu quả nhất
và cũng vì vậy nếu như bố cục không phù hợp sẽ làm phần quan trọng của
nội dung hoặc không thể hiện đúng nội dung và ý nghĩa của tác phẩm. Ví
du, bố cục trong hội họa bị chi phối bởi đặc điểm về thị giác, về điểm
nhìn khi xem tranh, tức là phụ thuộc vào yêu cầu có tính chất tâm – sinh
lý. Do vậy sự sắp xếp hình và màu sắc, sắc độ đậm, nhạt trên tranh nhằm
làm rõ tính tư tưởng và ý đồ sáng tạo của họa sỹ là một quy tắc thông
thường của hội họa. Tuy nhiên, tùy theo những điều kiện lịch sử nhất
định, từng trường phái và từng nghệ sỹ lại có lại có cách bố cục riêng,
bởi một ngôn ngữ đặc thù riêng. Chẳng hạn, phép bố cục cân xứng, hài hòa
của hội họa phục hưng, lối tả thực chính xác theo thấu thị học của hội
họa hiện thực, chủ nghĩa cổ điển.
Sự
đảo lộn những trật tự bố cục truyền thống, đi vào biểu hiện chủ quan là
trào lưu hội họa hiện đại như chủ nghĩa ấn tượng, siêu thực, trừu tượng
mà kết cấu, bố cục tuân theo nội tâm, đó mới chính là nguồn gốc
của nhu cầu và khả năng sáng tạo hoặc phải vẽ cái tồn tại trong tâm
hồn“Tôi”, để thoả mãn những nhu cầu thấu triệt mối liên hệ đích thực
giữa con người và vũ trụ. Các nhà trừu tượng muốn đưa hội họa lên siêu
việt và đem thần trí con người tạo ra một vũ trụ khác, một cõi thực thứ
hai.
c. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật
Nội
dung và hình thức là hai mặt thống nhất và đều có vị trí quan trọng đối
với giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Bởi chúng đều là cơ sở cho sự tồn
tại trong tính hiện thực của một tác phẩm nghệ thuật. Trong đó nội dung
qui định hình thức; mặt khác tính chất đa dạng, phong phú và mức độ hoàn
thiện hay không hoàn thiện của hình thức lại qui định mức độ hoàn thiện
hay không hoàn thiện của nội dung.
Khi
khẳng định vai trò quyết định của nội dung đối với hình thức, thì hình
thức cũng có tính tích cực đối với nội dung, khi xem xét tính phù hợp
hoặc không phù hợp của nó có bộc lộ đầy đủ nội dung hoặc cũng có thể làm
sai lệch nội nội dung của tác phẩm nghệ thuật. Do vậy, một tác phẩm
nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ cao không chỉ do nội dung tư tưởng tiến
bộ, phản ánh đúng chân lý khách quan của cuộc sống mà còn do hình thức
nghệ thuật hoàn thiện, hoàn mỹ của nó.
Tính
tích cực của hình thức nghệ thuật vốn là sức mạnh tiềm ẩn của trong
ngôn ngữ đặc trưng mang tính đa dạng, phong phú của các loại hình, loại
thể của nghệ thuật và cả những chất liệu vật chất – kỹ thuật được sử
dụng trong thủ pháp của nghệ thuật. Chẳng hạn, để diễn tả tính nhậy cảm,
tinh tế nhất trong thế giới tình cảm của con người thông qua năng lực
phản ánh của thính giác thì có lẽ âm nhạc là thích hợp hơn cả; nhưng
ngược lại nếu miêu tả tính không gian, sinh động cụ thể về thế giới của
màu sắc thông qua năng lực phản ánh của thị giác thì không có gì sánh
bằng hội họa.
Trong
sáng tạo nghệ thuật, bao giờ nghệ sỹ cũng đi từ nội dung đến hình thức,
xuất phát từ nội dung là cái tương đối ổn định và tìm kiếm những hình
thức đa dạng tương ứng để biểu hiện. Trong quá trình sáng tạo của người
nghệ sỹ, khi tác phẩm mới được hình thành thì nội dung đó còn nằm trong
trí tưởng tượng sáng tạo, ý đồ sáng tạo của nghệ sỹ chứ chưa phải là nội
dung hoàn chỉnh và nó chỉ hoàn chỉnh khi đã được thể hiện ở những hình
thức thích hợp với nó.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét