Nội dung, ý nghĩa qui luật về mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội)
1. Khái niệm cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành
cơ cấu kinh tế của xã hội.
Cơ sở hạ tầng
bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất
mới (mầm mống quan hệ sản của xã hội sau). Ví dụ: trong cơ sở hạ tầng hiện nay
ở Việt Nam, về cơ bản có các kiểu quan hệ sản xuất sau: quan hệ sản xuất cũ là
kiểu quan hệ sản xuất phong kiến, tư bản chủ nghĩa; quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa là quan hệ sản xuất thống trị và mầm mống của quan hệ sản xuất cộng sản
chủ nghĩa định hướng cho sự phát triển cơ sơ hạ tầng xã hội chủ nghĩa hiện nay
ở Việt Nam.
Trong mối quan
hệ của các quan hệ sản xuất của cơ sở hạ tầng, thì quan hệ sản xuất thống trị bao
giờ cũng giữ vai trò qui định, chi phối các quan hệ sản xuất khác. Tương ứng
với quan hệ sản xuất trong cơ sở hạ tầng là các thành phần kinh tế khác nhau.
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị qui định các quan hệ sản xuất khác.
Đặc trưng, bản
chất của một cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất thống trị qui định. Ví dụ: quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam phản ánh bản chất kinh tế - xã
hội hiện nay ở nước ta. Tương ứng với các kiểu quan hệ sản xuất trong một cơ sở
hạ tầng là các thành phần kinh tế khác nhau. Ví dụ: trong cơ sở hạ tầng hiện nay
ở Việt Nam bao gồm rất nhiều thành phần kinh tế như thành phần kinh tế tập thể,
thành phần kinh tế quốc doanh, thành phần kinh tế tư nhân của người sản xuất
nhỏ, thành phần kinh tế tư nhân tư bản…
Trong xã hội có
giai cấp thì cơ sở hạ tầng mang tính giai cấp. Bởi, nó đều phản ánh và bảo vệ
lợi ích cho những giai cấp khác nhau.
Kiến trúc thượng
tầng
là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ
nội tại của nó được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Tư tưởng xã hội,
là những hiện tượng xã hội được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Đó
là chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết
học, khoa học, tôn giáo và thẩm mỹ. Thiết chế xã hội tương ứng với tư tưởng
xã hội trên là giai cấp, chính đảng, nhà
nước, giáo hội và các tổ chức xã hội khác…
Mỗi bộ phận khác
nhau của kiến trúc thượng tầng đều có đặc điểm và qui luật riêng, nhưng chúng
đều có sự tác động biện chứng qua lại lẫn nhau khi phản ánh cơ sở hạ tầng.
Trong các bộ phận khác nhau đó, thì nhà nước, pháp luật và hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị là các bộ phận quan trọng nhất trong xã họi có giai
cấp.
Đặc trưng, bản
chất của một kiến trúc thượng tầng do quan hệ sản xuất thống trị qui định. Ví
dụ: bản chất của nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam đều do
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa qui định. Do đó, bản chất của nhà nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Trong xã hội có
giai cấp thì kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, phản ánh tính giai cấp ở
trong cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì bộ phận thể hiện
quyền lực xã hội quan trọng nhất là nhà nước - công cụ của giai cấp thống trị
thể hiện quyền thống trị xã hội của nó về mặt chính trị, pháp luật và các mặt
quan hệ xã hội khác.
2. Mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với
kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng
tầng ấy. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời thống trị về mặt
tinh thần. Cho nên, cơ sở hạ tầng nào thì sẽ sinh ra một kiến trúc thượng tầng
tương ứng.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng tất yếu sẽ dẫn
đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định, hoặc giữa các hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau. Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra
cũng sẽ mất theo và cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì một kiến trúc thượng tầng
mới phù hợp với nó cũng xuất hiện.
Một khi cơ sở hạ
tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng mất theo. Song, có những
nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn còn tồn tại rất lâu trong xã
hội mới, nhất là về mặt tư tưởng. Trong quá trình chuyển hoá giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng cũ và cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng mới bao giờ
cũng bao hàm sự kế thừa lẫn nhau dưới những hình thức cụ thể nào đó.
b) Sự tác động
trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Các bộ phận khác
nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động trở lại cơ sở hạ tầng; nhưng nhà
nước, pháp luật và hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị tác động một
cách trực tiếp và quan trọng nhất trong xã hội có giai cấp đối kháng.
Sự tác động trở
lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng cũng có thể thúc đẩy sự
hoàn thiện và phát triển của cơ sở hạ tầng, đồng thời cũng có thể kìm hãm sự
phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng cơ sở hạ
tầng và thực hiện đúng các chức năng của nó đối với cơ sở hạ tầng thì nó củng
cố bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Ngược lại, nó phản ánh
không đúng đối với cơ sơ hạ tầng và không thực hiện đúng các chức năng của nó
đối với cơ sở hạ tầng thì lại kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng
3. Đặc điểm của
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta
bao gồm các thành phần kinh tế, tức là các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan
hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cũng tồn
tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là có sự thống nhất ở mức
độ nhất định về mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại những mâu thuẫn nhất định.
Tương ứng với những mâu thuẫn là sự không đồng
nhất về bản chất kinh tế do sự tác động của nhiều hệ thống qui luật kinh tế. Đó
là hệ thống các qui luật kinh tế xã hội chủ nghĩa phát sinh trên cơ sở sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất, hệ thống các qui luật kinh tế sản xuất hàng hóa
nhỏ và các qui luật kinh tề tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa với
nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần thì sự quản lý của nhà nước
không chỉ bó hẹp trong trong kinh tế quốc doanh mà phải bao quát tất cả các
thành phần kinh tế khác, nhằm từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa với tất cả
các thành phần kinh tế khác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại
hóa nền kinh tế quốc dân. Trong đó, kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò
chủ đạo, quyết định đối với quá trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng xã
hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể phải thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ,
kinh tế tư nhân và gia đình có khả năng phát huy được mọi tiềm năng kinh tế góp
phần vào quá trình phát triển kinh tế của xã hội.
Xây dựng kiến
trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội
dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng về sự giải phóng con người
khỏi chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng văn minh, v.v... Tư tưởng Hồ
Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước
của nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Xây dựng hệ thống chính trị
xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, đội tiền phong của nó là sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, bảo đảm cho nhân dân ta là người chủ thật sự của xã
hội. Toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về xã hội thuộc về nhân dân, thực hiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi khả năng sáng tạo, tính tích cực chủ
động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội trong cuộc phát triển kinh tế và văn
hóa phục vụ ngày càng cao của đời sống nhân dân. Các tổ chức, thiết chế xã hội,
các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đều hướng
về mục tiêu chung làm cho dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn
minh.
3 nhận xét :
Cảm ơn tác giả, bài viết rất hữu ích. :)
Em đã hiểu tại sao lại nói quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của cơ sở hạ tầng, nhưng em vẫn chưa hiểu là tại sao lại lấy kinh tế làm cơ sở hạ tầng mà không là Kiến trúc thượng tầng? Em cảm ơn
Cơ sở hạ tầng là dùng để chỉ các quan hệ sản xuất nên nó là đại diện cho kinh tế, KTTT là chính trị - xã hội
Đăng nhận xét