1. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.
Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa cộng sản.
- Các Mác sinh ngày 5 - 5 – 1818 (1818 – 1883).
Thời thơ ấu và niên thiếu, ông sống ở tỉnh Ranh, một vùng khá phát triển cả về
kinh tế và chính trị của nước Đức.
Những ảnh hưởng
tốt của gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã làm hình thành và
phát triển ở C.Mác tinh thần nhân đạo chủ nghĩa và xu hướng yêu tự do. Phẩm
chất đạo đức - tinh thần cao đẹp đó không ngừng được bồi dưỡng đã trở thành
định hướng cho cuộc đời sinh viên và đưa C.Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng
và quan điểm vô thần. Ở C.Mác, việc nghiên cứu triết học trở thành niềm say mê
của nhận thức nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người mà lịch sử đặt ra.
Trong luận án tiến sĩ[1]
triết học của mình, C.Mác viết: "Giống như Prômêtê sau khi đã đánh cắp lửa
từ trên trời xuống, đã bắt đầu xây dựng nhà cửa và cư trú trên trái đất, triết
học cũng vậy, sau khi bao quát được toàn bộ thế giới, nó nổi dậy chống lại thế
giới hiện tượng"[2].
Cũng vì vậy,
trong tình hình lúc đó, triết học Hêghen với tinh thần biện chứng cách mạng của
nó được C.Mác xem là chân lý. Nhưng triết học Hêghen lại là chủ nghĩa duy tâm
khách quan, vì thế nảy sinh mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với tinh
thần dân chủ cách mạng và vô thần trong thế giới quan của tiến sĩ Mác. Mâu
thuẫn được giải quyết trong quá trình kết hợp chặt chẽ hoạt động lý luận với
thực tiễn đấu tranh của ông chống chế độ chuyên chế của Nhà nước quân chủ phong
kiến Phổ đương thời.
Sau khi nhận
bằng tiến sĩ triết học vào tháng 4 - 1841, C.Mác chuẩn bị vào giảng dạy triết
học ở Trường đại học Tổng hợp Bon và dự định xuất bản một tờ tạp chí với tên
gọi là Tư liệu của chủ nghĩa vô thần. Nhưng
hy vọng của ông đã không thực hiện được vì Phriđrích Vinhem IV (vua nước Phổ)
thực hiện chính sách phản động và đàn áp người dân chủ cách mạng. C.Mác cùng
một số người thuộc phái "Hêghen trẻ" đã chuyển sang hoạt động chính
trị, tham gia vào cuộc đấu tranh trực tiếp chống chủ nghĩa chuyên chế Phổ,
giành quyền tự do dân chủ. Bài báo “Nhận
xét bản chỉ thị mới nhất về chế độ kiểm duyệt của Phổ” được C.Mác viết vào
giữa tháng 1 - đầu tháng 2 - 1842 đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời
hoạt động cũng như sự chuyển biến tư tưởng của ông về sau này.
Sự chuyển biến đầu tiên tư tưởng của ông diễn ra trong
thời kỳ C.Mác làm việc ở báo Sông Ranh. Tháng 5 - 1842, ông bắt đầu cộng tác
với báo Sông Ranh; tháng 10 năm đó
ông trở thành biên tập viên và đóng vai trò linh hồn của tờ báo, làm cho nó trở
thành cơ quan của phái dân chủ - cách mạng.
Thực tiễn đấu
tranh trên báo chí tự do dân chủ đã làm tư tưởng dân chủ - cách mạng ở C.Mác có
nội dung chính xác hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của "quần chúng nghèo
khổ bất hạnh về chính trị và xã hội". Ở C.Mác, lúc này tư tưởng cộng sản
chủ nghĩa chưa được hình thành. Bác lại lời buộc tội báo Sông Ranh đã làm tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, C.Mác khẳng định
báo Sông Ranh "không chấp cả
tính hiện thực lý luận đằng sau những
tư tưởng cộng sản chủ nghĩa dưới hình thức hiện nay của chúng, và do đó, lại
càng ít muốn thực hiện chúng trên thực tiễn"[3].
Tuy nhiên, ông lưu ý: đối với hiện tượng "có ý nghĩa châu Âu" như
vậy, thì "không thể căn cứ vào ảo tưởng hời hợt trong chốc lát để phê
phán, mà chỉ có thể phê phán sau một sự nghiên cứu cần cù, sâu sắc"[4].
Nhìn chung, về
thế giới quan triết học, C.Mác vẫn đứng trên lập trường duy tâm trong việc xem
xét bản chất nhà nước. Nhưng việc phê phán chính quyền nhà nước đương thời đã
cho C.Mác nhận thức rằng, cái quan hệ khách quan quyết định hoạt động của nhà
nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã tìm cách
chứng minh bằng triết học mà là những lợi ích; còn chính quyền nhà nước lại là
"cơ quan đại diện đẳng cấp của những
lợi ích tư nhân"[5].
Như vậy, qua
thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập tư tưởng tự do trong
thực tế đã làm nảy sinh khuynh hướng duy vật ở C.Mác, tinh thần dân chủ cách
mạng sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tư biện. Vì thế, sau khi
báo Sông Ranh bị cấm (từ ngày
1-4-1843), C.Mác đặt ra cho mình nhiệm vụ duyệt lại một cách có phê phán quan
niệm duy tâm của Hêghen về xã hội và nhà nước, đồng thời phát hiện những động
lực thật sự để biến đổi thế giới bằng cách mạng.
Trong thời gian
ở Croixơnắc (tháng 5 đến tháng 10 năm 1843) C.Mác đã tiến hành phê phán chủ
nghĩa duy tâm của triết học pháp quyền Hêghen, qua đó phê phán chủ nghĩa duy
tâm của triết học Hêghen nói chung. Song song với việc viết cuốn sách Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen, ông đã nghiên cứu lịch sử một cách cơ bản. Trong khi phê phán chủ
nghĩa duy tâm của Hêghen, C.Mác đã tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học
Phoiơbắc. Song, C.Mác lại thấy được những mặt yếu trong triết học của Phoiơbắc,
nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị cấp bách đương thời.
Sự phê phán sâu
rộng đối với triết học Hêghen, việc khái quát những kinh nghiệm lịch sử cùng
với ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân bản của triết học Phoiơbắc đã góp phần
mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm của C.Mác. Cuối tháng 10 - 1843, C.Mác
sang Pari. Ở đây, không khí chính trị sôi sục và tiếp xúc với các đại biểu của
giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển
dứt khoát của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Các bài báo
của C.Mác “Bàn về vấn đề Do Thái” và
“Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen”. “Lời nói đầu” đăng trong tạp chí “Niêm giám Pháp - Đức” được xuất bản tháng 2-1844, đã đánh dấu hoàn
thành sự chuyển biến đó. Trong các bài báo nói trên, đặc biệt là bài “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen”, “Lời nói đầu”, C.Mác đã phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm
duy vật ý nghĩa lịch sử to lớn và cả mặt hạn chế của cuộc cách mạng tư sản mà
ông gọi là "sự giải phóng chính trị" hay "cuộc cách mạng bộ phận",
đã phác thảo những nét đầu tiên về "cuộc cách mạng triệt để" và chỉ
ra "cái khả năng tích cực" của giải phóng đó "chính là giai cấp
vô sản".
C.Mác, gắn bó
với cuộc đấu tranh cách mạng, lý luận tiên phong có ý nghĩa cách mạng to lớn và
"trở thành một sức mạnh vật chất". C.Mác nêu rõ "Giống như triết
học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình giai cấp vô sản cũng thấy
triết học là vũ khí tinh thần của mình"[6].
Tư tưởng về vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản mà điểm xuất phát
của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Như vậy, quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng triết học duy vật biện chứng và triết học duy vật lịch sử cũng đồng thời
là quá trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học, thế giới quan vô sản cách
mạng. Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ph.Ănggen đã hình
thành một cách độc lập với C.Mác.
- Ph.Ăngghen sinh ngày 28 - 11 - 1820, trong một gia
đình chủ xưởng sợi ở Bácmên thuộc tỉnh Ranh. Khi còn là học sinh trung học
Ph.Ăngghen đã căm ghét sự chuyên quyền và độc đoán của bọn quan lại. Việc
nghiên cứu triết học trong thời gian ở Béclin, khi làm nghĩa vụ quân sự, đã dẫn
ông đi xa hơn trên con đường khoa học. Song, chỉ thời gian gần hai năm sống ở
Mansextơ (Anh) từ mùa thu 1842, việc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát
triển chính trị của nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong trào
công nhân mới dẫn đến bước chuyển biến căn bản trong thế giới quan của ông sang
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Niên giám Pháp - Đức cũng đăng các
tác phẩm “Phác thảo góp phần phê phán
kinh tế chính trị học” và “Tình cảnh nước Anh”, “Tômát Cáclây”, “Quá khứ và
hiện tại” của Ph.Ăngghen gửi đến từ Mansextơ. Các tác phẩm đó cho thấy ở
Ph.Ăngghen, quá trình chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ - cách mạng sang chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản cũng đã hoàn thành. Ông đã đứng
trên quan điểm duy vật và lập trường của chủ nghĩa xã hội để phê phán kinh tế
chính trị học của A.Xmít và Đ.Ricácđô, vạch trần quan điểm chính trị phản động
của Cáclây, một người phê phán chủ nghĩa tư bản trên lập trường của giai cấp
quý tộc phong kiến.
Sự thống nhất về
tư tưởng đã dẫn đến tình bạn vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi
của hai ông với sự ra đời và phát triển của một thế giới quan mới mang tên Mác (triết
học Mác) - thế giới quan cách mạng của
giai cấp vô sản.
2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Thời gian năm
1844 đến năm 1848 là quá trình C.Mác và Ph.Ăngghen từng bước xây dựng những
nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”,
C.Mác đã trình bày những quan điểm kinh
tế và triết học của mình thông qua việc phê phán kinh tế chính trị học cổ
điển của Anh và tiếp tục phê phán triết học duy tâm của Hêghen; đồng thời ông
cũng vạch ra "mặt tích cực" của nó là phép biện chứng. Những quan
điểm mới của C.Mác được thể hiện trong việc phân tích sự tha hoá của lao động
với phạm trù "lao động bị tha hoá", từ đó, C.Mác cắt nghĩa sự tha hoá
bản thân con người và vạch ra con đường khắc phục sự tha hoá đó.
Thuật ngữ
"tha hoá" đã được sử dụng rộng rãi trong sách báo thời ấy. Ở Hêghen,
đó là sự "tự tha hoá" của "ý niệm tuyệt đối" thành giới tự
nhiên, xã hội và tư duy của con người; ở Phoiơbắc, đó là sự tha hoá "bản
chất tộc loại" của con người trong Chúa. Ngược lại, C.Mác muốn cắt nghĩa
sự tha hoá con người từ chính điều kiện sống và các quan hệ xã hội của con
người, từ chính hoạt động thể hiện năng lực bản chất của nó là lao động. C.Mác
xem sự tha hoá của lao động như một tất yếu lịch sử: "tự tha hoá" của
lao động. Sự tồn tại và phát triển của "lao động bị tha hoá" gắn liền
với sở hữu tư nhân.
Khác với các nhà
tư tưởng trước đây, cắt nghĩa sự ra đời chế độ sử hữu tư nhân tư bản do tính
tham lam, ích kỷ của con người, C.Mác cho rằng sở hữu tư nhân được sinh ra do
"lao động bị tha hoá", nhưng sau đó lại trở thành nguyên nhân của sự
tha hoá của lao động và sự tha hoá của con người. Sự tha hoá đó phát triển cao
độ trong chủ nghĩa tư bản, thể hiện ở sức lao động bị biến thành hàng hoá cũng
như ở quá trình hoạt động sản xuất và sản phẩm của lao động; từ đó, dẫn tới
"sự tha hoá của con người khỏi con người". Bởi vậy, việc khắc phục sự
tha hoá ấy chính là sự xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân. Việc giải phóng người khỏi
"lao động bị tha hoá" dưới chủ nghĩa tư bản cũng là khắc phục lao
động bị tha hoá nói chung, là sự giải phóng con người nói chung.
Trên cơ sở những
nội dung phân tích trên, C.Mác luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng
sản trong sự phát triển xã hội. Mặc dù sự luận chứng này còn ở trình độ chưa
chín muồi về lý luận, song nó đã cho phép phân biệt quan niệm của C.Mác về chủ
nghĩa cộng sản với những quan niệm chủ nghĩa bình quân vốn có của các môn phái
chủ nghĩa cộng sản không tưởng. C.Mác cũng đã tiến xa hơn Phoiơbắc rất nhiều
trong quan niệm về chủ nghĩa cộng sản tuy vẫn dùng những thuật ngữ của triết
học Phoiơbắc. Theo C.Mác, "Chủ nghĩa cộng sản coi như chủ nghĩa tự nhiên
hoàn bị = chủ nghĩa nhân đạo"[7].
Ông bác bỏ thứ chủ nghĩa cộng sản bình quân mà ông gọi là chủ nghĩa cộng sản
thô thiển, phủ nhận cá tính của con người, là sự quay lại với "sự giản dị,
không tự nhiên của con người nghèo khổ và không có nhu cầu"[8].
Từ thế giới quan
triết học vật biện chứng để nghiên cứu xã hội C. Mác đã nhận thức chủ nghĩa
cộng sản như một nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản. Bởi vì đến chủ
nghĩa tư bản thì lao động bị tha hoá đạt tới độ phát triển cao nhất khiến cho
sự phủ định chủ nghĩa tư bản trở nên tất yếu với những tiền đề do chính chủ
nghĩa tư bản đã tạo ra. Những hạn chế về lý luận của tác phẩm ban đầu trong
thời kỳ chuyển tiếp từ thế giới quan duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ những
nhà dân chủ cách mạng này từng bước được khắc phục với sự hình thành ở C.Mác
quan niệm duy vật về lịch sử.
Tác phẩm “Gia đình thần thánh” do C.Mác và
Ph.Ăngghen viết chung được xuất bản tháng 2 -1845. Cùng với việc phê phán quan
điểm duy tâm về lịch sử của "phái Hêghen trẻ", đứng đầu là anh em nhà
Bauơ, hai ông đã đề xuất một số nguyên lý cơ bản của triết học mácxít và chủ
nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm Gia
đình thần thánh đã chứa đựng "quan điểm hầu như hình thành của Mác về
vai trò cách mạng của giai cấp vô sản" và cho thấy "Mác đã tiến gần
như thế nào đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ "hệ thống" của ông... tức
là tư tưởng về những quan hệ xã hội của sản xuất"[9].
Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, được C.Mác và
Ph.Ăngghen viết chung vào cuối năm 1845 - đầu năm 1846, đánh dấu một mốc quan
trọng trong quá trình hình thành triết học Mác. “Hệ tư tưởng Đức” không chỉ là tác phẩm có quy mô lớn nhất trong
thời kỳ hình thành triết học Mác mà còn có thể xem như là tác phẩm chín muồi
đầu tiên của nhủ nghĩa Mác[10].
Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học và chủ nghĩa xã hội đương thời ở
Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày quan
niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống và nhiều nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
cộng sản khoa học như những hệ quả của quan niệm duy vật lịch sử.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, các ông đã làm sáng tỏ
"thế giới quan mới" của mình mà những luận điểm xuất phát đã được C.Mác
phác thảo trong 11 luận đề vào tháng 4-1845, nay được gọi là “Luận cương về Phoiơbắc”. “Luận cương về
Phoiơbắc” của C.Mác được Ph.Ăngghen đánh giá là văn kiện đầu tiên chứa đựng mầm mống thiên tài của một thế giới quan
mới.
Tư tưởng cơ bản
xuyên suốt của Luận cương là vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống
xã hội, từ đó nêu lên sứ mệnh góp phần "cải tạo thế giới" của triết
học Mác (luận đề thứ 11). Với quan điểm thực tiễn đúng đắn, C.Mác đã vạch ra
"khuyết điểm chủ yếu" của toàn bộ chủ nghĩa duy vật trước kia, kể cả
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc; đồng thời cũng phê phán và bác bỏ quan điểm của
chủ nhĩa duy tâm về tính năng động, sáng tạo của tư duy. Cũng từ quan điểm duy
vật biện chứng về thực tiễn C.Mác đi tới nhận thức về mặt xã hội của bản chất
con người. "Trong tính hiện thực của nó, - Mác viết - bản chất con người
là tổng hoà những quan hệ xã hội"[11].
Quan niệm duy
vật lịch sử xem xét lịch sử xã hội xuất phát từ con người. Trong Hệ tư tưởng Đức, hai ông khẳng định:
"Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại
của những cá nhân con người sống"[12].
Song, đó là những con người hiện thực
mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ. Phương thức sản xuất
vật chất không chỉ đơn thuần là tái sản xuất sự tồn tại thể xác của cá nhân, mà
hơn thế "nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy,
một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống
nhất định của họ"[13].
Một trong những
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác là sự khẳng định “Sản xuất
vật chất là cơ sở của đời sống xã hội”. Do đó, để hiểu được con người, C.Mác đã
đi sâu tìm hiểu sản xuất vật chất của con người trong xã hội. Nghiên cứu biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (trong tác phẩm này hai ông
dùng thuật ngữ "hình thức giao tiếp"), phát hiện ra quy luật vận động
và phát triển nền sản xuất vật chất xủa xã hội, triết học Mác đã đi tới nhận
thức đời sống xã hội bằng một hệ thống các quan điểm lý luận thật sự khoa học
về lịch sử.
Với tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, quan niệm duy vật về
lịch sử ở C.Mác đã hình thành. Quan điểm duy vật lịch sử tạo cơ sở lý luận khoa
học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và
Ph.Ăngghen. Tuy vậy, trong Hệ tư tưởng
Đức, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản được các tác giả của nó trình bày như
một hệ quả trực tiếp của phát hiện mới về triết học: quan niệm duy vật về lịch sử. Do đó, một số quan điểm về chủ nghĩa
xã hội khoa học được nêu lên nhưng chưa có được sự diễn đạt rõ ràng; song, điều
quan trọng là C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra phương pháp tiếp cận khoa học để
nhận thức chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng cao đẹp của
nhân loại, nhưng lý tưởng đó được thực hiện từng bước với những mục tiêu cụ thể
nào, bằng con đường nào; điều đó tuỳ thuộc vào điểm xuất phát và chỉ có qua
phong trào thực tiễn mới tìm ra được những hình thức và bước đi thích hợp.
"Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không
phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng
sản là một phong trào hiện thực, nó
xoá bỏ trạng thái hiện nay"[14].
Trong các tác
phẩm “Sự khốn cùng của triết học”
(1847) và “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
(tháng 2-1848), chủ nghĩa Mác được trình bày như một chỉnh thể các quan điểm lý
luận nền tảng với ba bộ phận hợp thành của nó. Trong Sự khốn cùng của triết học, C.Mác tiếp tục đề xuất các nguyên lý
triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và đặc biệt là, như chính Mác sau này đã
nói, "chứa đựng những mầm mống của học thuyết được trình bày trong bộ Tư bản sau hai mươi năm trời lao
động"[15].
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là văn kiện có
tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác; trong đó cơ sở triết học của
chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan
điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội. "Tác phẩm này trình bày
một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt
để - chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội, - phép biện
chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát
triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng - trong lịch sử toàn thế
giới - của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng tạo một xã hội mới, xã hội
cộng sản"[16].
Với Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, triết học
Mác và chủ nghĩa Mác nói chung đã hình
thành và sẽ được C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung, phát triển trong suốt cuộc đời của hai ông trên cơ sở tổng
kết những kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân và khái quát các thành
tựu khoa học.
3. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát
triển lý luận triết học
Từ sau Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, học thuyết
Mác tiếp tục bổ sung và phát triển trong sự gắn bó mật thiết hơn nữa với thực
tiễn cách mạng mà C.Mác và Ph.Ăngghen vừa là những đại biểu tư tưởng vừa là
lãnh tụ của phong trào công nhân thế giới. Bằng hoạt động lý luận của mình, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã đưa phong trào công nhân thế giới từ tự phát thành phong trào
tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ; và chính trong quá trình đó, học
thuyết của các ông cũng không ngừng được bổ sung và phát triển.
Các tác phẩm chủ
yếu của C.Mác như “Đấu tranh giai cấp ở
Pháp”, “Ngày 18 tháng Sương Mù của Lui Bônapáctơ”,
“Nội chiến ở Pháp”, “Phê phán Cương lĩnh Gôta”..., cho thấy việc tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân có tầm quan trọng như thế nào
trong sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói
riêng. Bộ Tư bản không chỉ là công
trình đồ sộ của C.Mác về kinh tế học mà còn là sự bổ sung, phát triển của triết
học Mác nói riêng, của học thuyết Mác nói chung. V.I.Lênin đã nhận xét: về
phương diện triết học, nếu như C.Mác không để lại cho chúng ta một "lôgíc
học với chữ L viết hoa" thì C.Mác đã để lại cho chúng ta cái lôgíc của bộ Tư bản.
Trong khi đó,
Ph.Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua việc khái quát các thành tựu
khoa học và phê phán các lý thuyết triết học duy tâm, siêu hình và cả những
quan niệm duy vật tầm thường ở những người tự nhận là người mácxít nhưng lại
không hiểu đúng thực chất của học thuyết Mác.
Với những tác
phẩm chủ yếu của mình như “Chống
Đuyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước”, “Lutvích Phoiơbắc và sự cáo chung của nền triết học cổ điển
Đức”,… Ph.Ăngghen đã trình bày học thuyết Mác nói chung, triết học Mác nói
riêng dưới dạng một hệ thống lý luận. Ngoài ra cũng cần chú ý rằng, những ý
kiến bổ sung, giải thích của Ph.Ăngghen sau khi C.Mác qua đời đối với một số
luận điểm của các ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát
triển học thuyết Mác.
[1] Luận án tiến sĩ: “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của
Đêmôcrít và triết học tự nhiên Êpiquya”.
[2] Xem: “Giáo trình triết học Mác – Lênin”, Nxb Chính trị quốc gia, H,
1999, tr. 137.
[3] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1,
tr.172.
[4] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1,
tr.173.
[5] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB, Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, t.1, tr.229.
[6] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB, Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, t.1, tr.589.
[7] C.Mác: Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Nxb, Sự thật,
Hà Nội, 1962, tr.128.
[8] C.Mác: Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Nxb, Sự thật,
Hà Nội, 1962, tr.126.
[9] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Mát xcơva, 1963, t.29. tr.11-13 (tiếng Nga)
[10]Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức chưa được xuất bản khi V.I.Lênin còn sống nên
V.I.Lênin xem tác phẩm Sự khốn cùng cảu
triết học là tác phẩm chín muồi đầu tiên của chủ nghĩa Mác
[11] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, t.3, tr.11.
[12] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3,
tr.29.
[13] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, t.3, tr.30.
[14] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3,
tr.51.
[15] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19,
tr.334.
[16] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.26, tr.57.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét